[FA. Hayek: Cuộc đời và sự nghiệp]: Chương 16 - Đường về nô lệ (Phần 1)

[FA. Hayek: Cuộc đời và sự nghiệp]: Chương 16 - Đường về nô lệ (Phần 1)

CHƯƠNG XVI. ĐƯỜNG VỀ NÔ LỆ

Tác phẩm Đường về nô lệ (The Road to Serfdom) (1944) đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của Hayek. Trước khi nó ra đời, ông chỉ là một vị giáo sư kinh tế không tiếng tăm. Một năm sau khi tác phẩm được công bố, tên tuổi của ông lừng danh khắp thế giới. Đường về nô lệ là công trình mà ông được biết đến nhiều nhất, và có thể sẽ vẫn tiếp tục như vậy.

Trong lời giới thiệu cuốn sách ông viết, nó là “sản phẩm xuất phát từ kinh nghiệm gần kề nhất có thể đến hai lần sống qua cùng một giai đoạn – hay chí ít cũng là hai lần quan sát cùng một quá trình tiến hoá tư tưởng.” Là một thanh niên trẻ tuổi ở Áo ngay sau Thế chiến I, ông từng một lần trước đó trải qua giai đoạn khi người ta xem xét nghiêm túc việc quốc hữu hoá các phương tiện sản xuất kinh tế. Sau Thế chiến I, chính phủ Đức và Áo thông qua các đạo luật về quốc hữu hoá. Việc Mises khởi xướng cuộc tranh luận về bài toán xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ sự thôi thúc của diễn biến đương thời đó. Lúc này ông e sợ nước Anh có thể chuyển hướng theo chủ nghĩa xã hội cổ điển.

Cho dù những cuốn sách tư tưởng không cần phải có lượng độc giả lớn để có ảnh hưởng, thì chúng vẫn cần một nhóm người đọc đáng kể nào đó để đạt tới tầm ý nghĩa quan trọng nhất. Việc Hayek coi thành công nổi tiếng có liên quan đến tầm quan trọng của cuốn sách được minh chứng qua hy vọng của ông, trước khi xuất bản, là cuốn Hiến pháp về quyền tự do (The Constitution of Liberty) cũng sẽ thành công như thế. Ông tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của ý tưởng. Phạm vi độc giả của một cuốn sách có liên quan đến ảnh hưởng của nó. Tác phẩm Đường về nô lệ – cuốn duy nhất trong số các trước tác của ông – có ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành quan niệm đương thời của quần chúng – dù không nhất thiết diễn ra ngay tức thời nhưng lại sâu sắc và trên quy mô lớn. Nó mang âm hưởng của tiếng kêu thét từ một kẻ đã lui mình vào hậu trường rằng chủ nghĩa xã hội cổ điển, nếu thành hiện thực, sẽ là chế độ nô lệ về chính trị, luân lý cũng như kinh tế. Điều này giờ đây đã là chuẩn mực trí tuệ. Nhưng khi Hayek công bố ý tưởng của mình thì chưa phải thế.

Tuy nhiên, sự vĩ đại của tác phẩm Đường về nô lệ không chỉ bắt nguồn từ ảnh hưởng mà còn từ phẩm chất đích thực của nó. Công trình này phần lớn có thể được coi là sự rẽ sang mảng chính trị và luân lý bắt nguồn từ cuộc tranh luận về bài toán xã hội chủ nghĩa, không đơn thuần là sự đánh giá từ góc độ năng suất kinh tế mà chủ yếu là từ hình thái chế độ và xã hội có tính tất yếu trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cổ điển. Năm 1941, trong bài phê bình “Bài toán xã hội chủ nghĩa: Giải pháp ‘cạnh tranh’” (Socialist Calculation: The Competitive ‘Solution’) – bài viết cuối cùng của ông thời bấy giờ về cuộc tranh luận – ông nhận định, “mức độ mà hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể tránh khỏi quản lý kinh tế tập trung rộng khắp mang ý nghĩa rất quan trọng, hoàn toàn nằm ngoài mối quan hệ của nó với hiệu quả kinh tế: Nó có ý nghĩa thiết yếu đối với mức độ duy trì tự do cá nhân và chính trị trong một hệ thống như thế.” 

Tác phẩm Đường về nô lệ là nỗ lực vượt lên trên đồng nghiệp kinh tế của ông, đến với lượng độc giả rộng lớn hơn thuộc giới khoa học xã hội và trí thức. Khi viết cuốn sách, ông không biết mình sẽ đi đến đâu, nhưng rõ ràng ông đã vượt xa toan tính của mình. Ông không nghĩ mình có thể sẽ trở nên nổi tiếng khắp thế giới với tư cách tác giả của nó. Trên thực tế, ông không nhìn thấy trước vai trò tương lai của mình ngoài một vị giáo sư kinh tế, dù ông vẫn có những hy vọng cao xa hơn. Nhưng hy vọng không đồng nghĩa với sự trông đợi hợp lý. Mục tiêu mà ông đặt ra cho cuốn Đường về nô lệ là vươn tới một số lượng độc giả nam nữ có giáo dục, và thông qua ảnh hưởng đến họ, tác động đến chính sách xã hội. Ông nhận thấy nước Anh đã sẵn sàng dấn thân theo chủ nghĩa xã hội với quá trình quốc hữu hoá triệt để sau Thế chiến II, và ông nghĩ đó sẽ là một sai lầm đau buồn.

Giữa chừng cuộc chiến ông tuyên bố, “Đây là thời điểm cần thiết phải khẳng định một thực tế không lấy gì làm thú vị là chúng ta đang đứng trước nguy cơ lặp lại số phận của nước Đức.” Đối với thế hệ sau này, cũng như với nhiều người thuộc thế hệ ông, tuyên bố trên có vẻ như cường điệu. Làm thế nào mà nước Anh đầu thập niên 1940 lại có thể được cảm nhận là có nguy cơ trở thành một nước Đức Quốc xã khác? Luận điểm của ông là sở hữu nhà nước đối với các phương tiện sản xuất – chủ yếu được giới trí thức hàn lâm suốt những năm 1930 và sau đó ủng hộ – sẽ tập trung quyền lực vào tay nhà nước theo cách thức tương tự như ở Đức Quốc xã và Liên bang Xôviết.

Keynes chỉ được đề cập hai lần trong cuốn Đường về nô lệ – một lần ở phần chú thích và một lần khi chính Keynes chỉ trích bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của Đức trong Thế chiến I. Mục tiêu của Hayek trong tác phẩm Đường về nô lệ không phải là nhà nước phúc lợi, như bấy giờ bắt đầu được nhắc đến dưới cái tên đó; mục tiêu của ông không phải là Keynes. Trong lời tựa cho ấn bản năm 1976 của cuốn sách, ông đã cho thấy rõ là “giữa hai mốc thời gian thì thuật ngữ đã thay đổi và vì thế những gì tôi từng viết trong tác phẩm có thể bị hiểu nhầm. Vào thời điểm tôi viết cuốn sách thì chủ nghĩa xã hội mang ý nghĩa không thể nhầm lẫn là việc quốc hữu hoá các phương tiện sản xuất cùng kế hoạch hoá kinh tế tập trung mà việc quốc hữu hoá đó khiến cho khả thi và trở nên cần thiết.” Đối thủ của ông trong cuốn sách cũng không phải là William Beveridge hay tác phẩm năm 1942 Báo cáo về bảo hiểm trợ cấp xã hội và các dịch vụ liên hoàn (Report on Social Insurance and Allied Services) của ông ta. Cả Beveridge lẫn Báo cáo Beveridge đều không được đề cập trong cuốn Đường về nô lệ.

Ra đời ở Anh tháng 10 năm 1944, tác phẩm Đường về nô lệ thành công ngay lập tức và thu hút sự chú ý thực sự của công chúng. Sự xuất hiện của nó thật đúng lúc. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, cuốn sách cũng đã đánh vào cảm xúc của độc giả. Liệu nước Anh có đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cổ điển – quốc hữu hoá các phương tiện sản xuất kinh tế – sau khi kết thúc chiến tranh hay không?

Năm 1884, Sir William Harcourd, thủ lĩnh đảng Tự do Anh, từng phát biểu câu nói nổi tiếng, “Tất cả chúng ta giờ đây đều là những nhà xã hội chủ nghĩa.” Trong cuốn sách Hayek viết, “Nếu như bây giờ việc nhấn mạnh ‘tất cả chúng ta giờ đây đều là những nhà xã hội chủ nghĩa’ không còn gây ấn tượng được nữa, thì điều đó chỉ là vì thực tế đã quá hiển nhiên. Hiếm có ai nghi ngờ việc chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, và hầu hết mọi người đang cố gắng làm chệch hướng trào lưu này đều chỉ đơn giản vì lợi ích của một giai cấp hay một nhóm cụ thể nào đó.” Chủ nghĩa xã hội được coi là bước tiến mang bản chất đạo đức và thực nghiệm tiếp theo của xã hội, đặc biệt dưới con mắt các nhà trí thức hàn lâm.

Cuốn sách được viết từ năm 1940 đến 1943, “chủ yếu năm 1941 và 1942.” Hayek kể về tên tác phẩm, “ý tưởng đó đến từ Tocqueville, người từng nói về con đường dẫn đến sự nô lệ (servitude); tôi thích chọn từ này, nhưng nó lại mang âm hưởng không hay. Vì thế tôi đổi ‘servitude’ sang ‘serfdom,’ chỉ đơn thuần vì lý do ngữ âm.” Ông đặc biệt chú trọng đến văn phong trong phần giới thiệu và hai ba chương đầu, “đọc đi đọc lại, đưa đẩy ý tứ.” Ông hẳn sẽ mất “hàng năm để làm như thế với toàn bộ cuốn sách.” Theo Hayek, phần mở đầu là những gì “tốt nhất” mà ông từng viết. 

Ông trích dẫn tác phẩm Con người và xã hội trong kỷ nguyên tái thiết (Man and Society in an Age of Reconstruction, 1940) của Karl Mannheim1 một số lần trong cuốn sách như một ví dụ về thứ triết lý mà mình phản đối, và công trình này cũng đáng để chúng ta dành chốc lát ở đây để nắm bắt tốt hơn những xu thế đương thời. Mannheim là nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa xuất chúng người Đức, ông buộc phải chuyển sang Anh sau khi bọn Quốc xã lên nắm quyền. Mannheim tin tưởng rằng ở “giai đoạn xã hội công nghiệp hiện nay, kế hoạch hoá dưới hình thức này hay hình thức khác là điều không tránh khỏi”; “kế hoạch hoá là quá trình tái xây dựng một xã hội phát triển về mặt lịch sử sang một thực thể thống nhất được con người điều tiết ngày càng hoàn hảo từ những vị trí trung tâm nhất định. Quá trình xã hội không còn đơn thuần chỉ là sản phẩm của xung đột và cạnh tranh. Nếu không nhận ra xu thế này thì chúng ta không thể hiểu được kỷ nguyên mà mình đang sống”; và “thực tế đang ngày một trở nên rõ ràng là sự thụ hưởng thu nhập cùng lãi suất và quyền định đoạt tư bản là hai thứ rất khác nhau. Khả năng là trong tương lai, sự vật sẽ phát triển như vậy cho đến lúc, bằng việc đánh thuế phù hợp cùng với mục tiêu từ thiện bắt buộc, việc sử dụng [tư bản] không hạn chế đó có thể được thắt chặt, và quyền định đoạt tư bản có thể được định hướng từ trung ương thông qua các biện pháp kiểm soát tín dụng… rút một số chức năng nhất định của tư bản khỏi quyền năng của nhà tư sản.” Trước khi Friedman tái khái niệm hoá nguồn gốc tiền tệ của cuộc đại suy thoái (Hayek luôn bất đồng với quan điểm này), và sự phồn vinh vĩ đại của giai đoạn hậu Thế chiến II, thì điều vẫn chưa được làm rõ là cuộc đại suy thoái không phải là hậu quả từ những sai lầm của các nhà tư bản, những mâu thuẫn cố hữu trong lòng chủ nghĩa tư bản, và nhu cầu cần có sự thay đổi mang tính hệ thống. Hayek cũng trích dẫn công trình nổi tiếng đương thời của C.H. Waddington, người háo hức trông chờ một nền kinh tế “tập trung và chuyên chế theo nghĩa tất cả các khía cạnh phát triển kinh tế của những vùng rộng lớn được kế hoạch hoá có ý thức với tư cách một tổng thể thống nhất.” 

Đấy là những quan điểm nổi bật thời bấy giờ. Nếu như cảm tình xã hội chủ nghĩa của các đối thủ trí tuệ với Hayek nay xem ra đã lỗi thời thì điều này cũng không làm giảm tính chất đại diện của chúng cho một hệ phái đáng kể trong thế giới quan tư tưởng đương thời. Những nhận định của ông có lẽ sẽ kém vô bổ hơn nếu như, với cùng cái cách mà một số tư tưởng của Hayek trong tác phẩm Đường về nô lệ giờ đây có vẻ xa vời, thì hãy nhớ lại rằng quan niệm của những người đương thời với ông cũng xa xôi đến nhường nào so với cuộc thảo luận hiện nay – dù chính xác là theo hướng ngược lại. Hayek đã đánh giá sai khả năng và thực tiễn của chính trị thời ấy. Ông tỏ ra quá bi quan khi bàn về khả năng của biến động xã hội chủ nghĩa nội tại ở các quốc gia phương Tây cũng như khi đánh giá khả năng của một “đường lối trung dung” giữa chủ nghĩa xã hội nhà nước và chủ nghĩa tư bản không được quản lý nhằm đạt được năng suất kinh tế và tự do cá nhân tương đối. Trên thực tế, ông tán thành đường lối trung dung, tuy khá thiên về cánh hữu hơn so với Keynes và Beveridge, và dù ông không thừa nhận hay gọi như thế.

Tuy nhiên, thành tựu của ông là đã nhận ra đúng vấn đề, điều mà rất nhiều người thuộc giới trí thức và khoa học hàn lâm đương thời với ông sai lầm: Việc thực hành tư hữu cùng với kiểm soát tư nhân đối với nhiều phương tiện sản xuất trong xã hội có ý nghĩa then chốt đối với tự do, phồn vinh, và dân chủ. Hơn thế, chủ nghĩa xã hội cổ điển dù đạt được bằng những biện pháp dân chủ cũng sẽ mang bản chất chuyên chế.

Cần nhấn mạnh bối cảnh nước Anh – về trí tuệ và lịch sử – khi ông viết cuốn sách. Khác với Mỹ, Anh là một xã hội giai cấp manh mún, bất bình đẳng, và chật hẹp về địa lý mà ở đó khái niệm tổ chức xã hội có vẻ khả dĩ hơn so với Mỹ. Đặc biệt sau khi trải qua Thế chiến I và II, giai đoạn mà phần lớn nền kinh tế Anh được huy động cho nỗ lực chiến tranh theo những phương thức vượt xa nước Mỹ, thì ý tưởng cho rằng những hoạt động này có thể được tiếp tục theo đuổi trong thời bình xem ra là hết sức hợp lý. Về mặt tư duy, chủ nghĩa xã hội cũng có vẻ khả thi. Các tác gia kinh tế và chính trị vĩ đại người Anh từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 đã dọn đường cho chủ nghĩa xã hội qua việc nhấn mạnh đến thế giới thực tại này, có cả niềm vui và nỗi đau, và hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội được cho là sự đạt đến hạnh phúc vật chất thông qua bàn tay chính phủ.

Dù vậy, chủ nghĩa xã hội rõ ràng là một sự thay đổi so với quá khứ – đặc biệt là biến thái của nó ở Châu Âu lục địa – cho dù nó thoát thai từ quá khứ. Ý tưởng tổ chức toàn bộ khía cạnh kinh tế của xã hội chưa thể hình thành cho đến sau cuộc cách mạng công nghiệp. Đơn giản là vì trước đó công nghệ chưa hiện hữu để có thể áp dụng sự kiểm soát như thế. Thông tin liên lạc thời tiền công nghiệp là không hiệu quả. Một xã hội không có hệ thống điện báo và đường lát đá thì khó được tổ chức toàn diện. Dù những kẻ cai trị độc tôn thời tiền công nghiệp là những kẻ bạo chúa hay chuyên quyền, nhưng họ nhìn chung lại phó mặc cho các thần dân tự xoay xở với các hoạt động kinh tế của mình, những người này chịu sự lệ thuộc vào các hiệp hội và sự kiểm soát ở địa phương, của nhà thờ và phường buôn, và phần lớn giới cai trị đều bằng lòng với việc chỉ đánh thuế thần dân.

Cuộc đại suy thoái đã làm gia tăng đáng kể sự ủng hộ đối với chủ nghĩa xã hội ở cả Anh và Châu Âu. Khi ở phương Tây hàng chục triệu người bị thất nghiệp thì xem ra chủ nghĩa tư bản là một sự thất bại, tiên đoán của Marx về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là chính xác, và sự kiểm soát của tập thể và nhà nước đối với những phương tiện sản xuất, như ở Liên bang Xôviết, là cách thức tốt nhất để vươn tới nền kinh tế ổn định và hiệu quả. Tác phẩm Con đường tới phản động (Road to Reaction) xuất bản năm 1945, sự đáp trả cay độc của Herman Finer đối với Đường về nô lệ, đã biểu lộ rõ ràng quan niệm truyền thống về sự thất bại của chủ nghĩa tư bản nhìn từ góc độ hậu quả của những khiếm khuyết trên đối với việc duy trì chính phủ dân chủ. Finer viết, “cảm giác về sự tuyệt vọng bắt nguồn từ xu hướng gây kìm hãm của quá trình phá sản kinh tế đã khiến cho hệ thống chính trị trên toàn thế giới phải căng lên ghê gớm. Ở Đức, vẫn là hình thức chính phủ dân chủ, người dân đã quay sang cầu cứu những người đang chuẩn bị thay thế chính phủ phổ thông bằng một chính thể độc tài. Ở Pháp, xã hội của nó đang bị chia rẽ sâu sắc. Còn ở Mỹ và Anh, nơi hệ thống dân chủ vốn có nền móng vững chắc hơn trong lịch sử và tính cách dân chúng, thì sức ép nghiêm trọng nhất, gần như đến điểm bùng nổ, đang đè nặng lên các thể chế, và thật khó lòng trụ nổi.” Ngược lại, đối với Hayek, “Chỉ có chủ nghĩa tư bản mới khiến cho dân chủ khả thi,” và “Chúng ta đang dần dần từ bỏ thứ tự do ấy trong hoạt động kinh tế mà nếu không có nó thì tự do cá nhân và chính trị không bao giờ tồn tại trong quá khứ.” Luận điểm của ông mang tính thực nghiệm hơn là luân lý, theo đó chủ nghĩa tư bản thị trường tự do là hình thái kinh tế hiệu quả nhất mà nhân loại từng biết đến và nó dẫn đến xã hội nhìn chung là tự do, khoan dung và dân chủ hơn. Hơn thế, theo ông chủ nghĩa xã hội cổ điển tất kìm hãm tâm hồn con người.

Chú thích:

(1) Karl Mannheim (1893-1947): Người được coi là nhà sáng lập chuyên ngành xã hội học tri thức (sociology of knowledge). (N.D.)

Dịch giả:
Lê Anh Hùng
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh

Bài viết liên quan