Kinh tế học và Tri thức (Phần 2/4)
3
Tuy ở phần trước tôi có tỏ thái độ nghi ngờ về khả năng áp dụng phân tích cân bằng theo nghĩa xác định ở trên cho hoàn cảnh của một xã hội cạnh tranh, nhưng tôi hoàn toàn không có ý phủ nhận mục đích ban đầu của khái niệm này là để mô tả ý tưởng về một trạng thái cân bằng (balance) nào đó giữa những hành động của các cá nhân khác nhau. Những biện luận của tôi trên đây thực ra chỉ nhằm thể hiện một ý duy nhất là chúng ta không thể áp dụng ngay được khái niệm cân bằng được sử dụng theo nghĩa để mô tả sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các hành động khác nhau của một cá nhân cho những mối quan hệ giữa các hành động của những cá nhân khác nhau. Vận dụng khái niệm cân bằng trên như thế nào để bàn luận về cân bằng cho một hệ thống cạnh tranh mới thực sự là câu hỏi mà chúng ta phải trả lời.
Bằng cách tiếp tục áp dụng phương pháp tiếp cận trên, chúng ta có thể đưa ra câu trả lời kiểu như sau. Trạng thái cân bằng của xã hội tồn tại nếu các hành động của tất cả các thành viên của nó trong một giai đoạn là toàn bộ việc thực thi các kế hoạch riêng lẻ mà mỗi người trong số họ đã quyết định ngay tại điểm khởi đầu của giai đoạn xem xét. Nhưng, khi chúng ta muốn biết thêm điều này ngụ ý chính xác cái gì, thì dường như cách trả lời này, thay vì giải quyết được vấn đề, lại gây ra nhiều khó khăn hơn. Việc áp dụng khái niệm cho trường hợp một người tách biệt (hay một nhóm người được chỉ đạo bởi một trong số họ) hành động trong một giai đoạn theo một kế hoạch định trước sẽ không vấp phải một khó khăn thực sự nào. Trong trường hợp này, ta có thể nhận ra việc thực thi kế hoạch mà chẳng cần kế hoạch phải thỏa mãn bất kỳ tiêu chí đặc biệt nào. Dĩ nhiên, kế hoạch có thể được xây dựng dựa trên các giả định không đúng về các sự kiện bên ngoài, và trong trường hợp này, nó có thể cần phải được điều chỉnh. Nhưng sẽ luôn có một tập các sự kiện bên ngoài mà chúng ta có khả năng nhận biết khiến cho kế hoạch có thể được triển khai đúng như dự định lúc ban đầu.
Tuy nhiên tình huống sẽ khác đi khi các kế hoạch được quyết định dù đồng thời nhưng độc lập với nhau bởi một số cá nhân. Thứ nhất, để tất cả các kế hoạch này có thể được tiến hành, chúng cần được xây dựng dựa trên kỳ vọng về cùng một tập các sự kiện bên ngoài, vì nếu những người khác nhau xây dựng các kế hoạch của họ dựa trên những kỳ vọng xung đột thì sẽ không thể tồn tại tập sự kiện bên ngoài nào làm cho việc thực thi tất cả các kế hoạch này khả thi. Và thứ hai, trong một xã hội dựa trên trao đổi thì ở một mức độ nào đó các kế hoạch sẽ được thiết kế cho những hành động mà yêu cầu phải có các hành động tương ứng từ phía các cá nhân khác. Điều này có nghĩa là, theo một nghĩa hẹp, các kế hoạch của những cá nhân khác nhau phải tương hợp nhau nếu ta hình dung họ có khả năng thi hành tất cả các kế hoạch đó.1 Hay nói một cách khác, vì một số "dữ liệu" mà một cá nhân bất kỳ sẽ sử dụng để xây dựng kế hoạch của mình sẽ là kỳ vọng để những người khác hành động theo cách riêng của mình, nên điều kiện để các kế hoạch khác nhau tương hợp với nhau là các kế hoạch của người này phải bao gồm chính xác những hành động vốn dĩ hình thành nguồn dữ liệu cung cấp cho những kế hoạch của những người kia.
Trong phương pháp phân tích cân bằng truyền thống một phần khó khăn này có thể tránh được nhờ giả thiết rằng dữ liệu, dưới dạng những biểu cầu (demand schedules) thể hiện các thị hiếu cá nhân và các đặc tính công nghệ, được cung cấp bình đẳng cho mọi cá nhân và rằng hành động của họ dựa trên cùng một tập các dữ liệu sẽ bằng cách này hay cách khác khiến cho những kế hoạch của họ thích ứng lẫn nhau. Chúng ta dễ dàng chỉ ra được rằng giải pháp này thực tế không giải quyết ổn thoả những khó khăn phát sinh bởi vì các hành động của một người chính là dữ liệu của người khác và do vậy ở một mức độ nào đó nó rơi vào lí luận vòng vo. Tuy nhiên, dường như chúng ta còn bỏ sót một vấn đề. Đó là, toàn bộ phương pháp này mắc phải một nhầm lẫn có tính tổng quát hơn nhiều xuất phát từ sự mập mờ nước đôi của thuật ngữ “dữ liệu” (datum), theo đó khó khăn vừa được đề cập chỉ là một trường hợp đặc biệt. Dữ liệu được giả định ở đây là các sự kiện khách quan và giống nhau cho tất cả mọi người hiển nhiên không còn là loại dữ liệu ở thời điểm khởi đầu của một loạt quá trình biến đổi hằng đề trong Logic Thuần túy về Lựa chọn. Ở thời điểm khởi đầu đó, “dữ liệu” có nghĩa là tất cả những sự kiện, và chỉ những sự kiện, hiện hữu trong tâm trí của cá nhân đang hành động, và chỉ với cách diễn giải chủ quan như thế về thuật ngữ “dữ liệu” mới đảm bảo cho các định đề đó trở nên đúng. Bản thân khái niệm “dữ liệu” đã hàm ý được cho sẵn, đã biết đối với người đang hành động. Nhưng trong quá trình chuyển tiếp từ việc phân tích hành động của một cá nhân sang phân tích trạng thái của một xã hội, khái niệm dữ liệu đã có sự thay đổi ngầm về ý nghĩa.
4
Sự nhầm lẫn về khái niệm dữ liệu là căn nguyên gây ra nhiều khó khăn trong lĩnh vực này nên có lẽ chúng ta cần xem xét nó chi tiết hơn. Tất nhiên, dữ liệu có nghĩa một cái gì đó đã cho sẵn, nhưng câu hỏi, mà vẫn còn để ngỏ, và trong khoa học xã hội có thể có hai câu trả lời, là với ai các sự kiện được coi là cho sẵn. Trong tiềm thức, các nhà kinh tế học dường như luôn băn khoăn về điểm này và đã tự trấn an cho cái cảm giác rằng mình thực sự không biết với ai các sự kiện này được cho sẵn bằng cách nhấn mạnh thực tế chúng đã được cho sẵn, thậm chí bằng cách sử dụng những cách biểu đạt thừa thãi như “dữ liệu cho sẵn” (given data). Nhưng cách này không giải quyết được vấn đề liệu các sự kiện đề cập được coi là cho sẵn đối với nhà kinh tế học đang quan sát hay đối với những người có các hành động mà nhà kinh tế học muốn giải thích, và, nếu là trường hợp sau thì liệu chúng ta có thể giả định rằng tập các sự kiện đó cũng được tất cả những người khác nhau trong hệ thống biết đến hay liệu rằng “dữ liệu” cho những người khác nhau có thể khác nhau.
Không còn nghi ngờ gì rằng hai khái niệm “dữ liệu” này, một mặt, theo nghĩa các sự kiện thực tế khách quan, được giả định là biết đối với nhà kinh tế đang quan sát, và mặt khác, theo nghĩa chủ quan, như là những cái được biết bởi những người mà hành vi của họ là đối tượng chúng ta cố gắng giải thích, là khác nhau thực sự về nền tảng và phải được phân biệt một cách cẩn thận. Và rồi chúng ta sẽ thấy, câu hỏi tại sao dữ liệu theo nghĩa chủ quan của thuật ngữ lại luôn luôn tương ứng với dữ liệu khách quan là một trong những vấn đề trọng tâm mà ta phải trả lời.
Sự phân biệt này ngay lập tức tỏ rõ tính hữu ích khi ta áp dụng nó để tìm ý nghĩa cho khái niệm về một xã hội ở trạng thái cân bằng tại một thời điểm nào đó. Khi người ta nói các dữ liệu chủ quan, mà cho sẵn với những người khác nhau, và các kế hoạch riêng lẻ, mà là kết quả tất yếu của các dữ liệu này, tương hợp với nhau, thì hiển nhiên điều này bao hàm hai ý. Có thể chúng ta đơn thuần chỉ muốn nói những kế hoạch này tương hợp lẫn nhau và do đó tồn tại một tập các sự kiện bên ngoài có thể nhận biết được cho phép tất cả mọi người tiến hành các kế hoạch của mình và không gây ra bất kỳ sự thất vọng nào. Nếu giả sử không có sự tương hợp lẫn nhau giữa các kế hoạch, và vì thế không tồn tại tập sự kiện bên ngoài nào có thể thỏa mãn toàn bộ các kỳ vọng, thì rõ ràng chúng ta có thể nói đây không phải là trạng thái cân bằng. Có một tình huống mà chúng ta không thể tránh khỏi, đó là chí ít luôn có một vài cá nhân điều chỉnh một vài nội dung trong các kế hoạch của mình, hay nói theo một lối nói trước đây nghe có vẻ mơ hồ nhưng giờ lại hoàn toàn phù hợp với bối cảnh này là không thể tránh khỏi tình huống xuất hiện các nhiễu loạn “nội sinh”.
Tuy nhiên, vẫn còn một câu hỏi khác là liệu có tồn tại những tập dữ liệu chủ quan của các cá nhân tương ứng với dữ liệu khách quan và vì thế liệu những kỳ vọng mà các kế hoạch nương vào sẽ được các thực tế xác nhận. Nếu giả sử trạng thái cân bằng đòi hỏi sự tương ứng giữa các dữ liệu theo nghĩa này, thì tại thời điểm kết thúc giai đoạn thực hiện kế hoạch sẽ không bao giờ có thể xác định được cái gì khác ngoài công việc duy nhất là xem xét lại quá khứ, liệu tại điểm khởi đầu, xã hội đã ở trạng thái cân bằng hay chưa. Trong trường hợp này, có lẽ để phù hợp hơn với cách dùng thông thường, chúng ta nói cân bằng, như được định nghĩa trong ý thứ nhất, có thể bị nhiễu bởi một sự mở rộng không-thể-dự-báo-trước của dữ liệu (khách quan) và chúng ta mô tả điều này như là một sự nhiễu loạn ngoại sinh. Thực tế, ta khó có thể gán cho khái niệm sự thay đổi dữ liệu (khách quan), một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều, một nghĩa xác định nào trừ phi chúng ta phân biệt được những phát sinh bên ngoài tương hợp và khác với những kỳ vọng chung, và định nghĩa “sự thay đổi” là bất kỳ sự khác biệt nào giữa cái phát sinh thực tế và cái phát sinh theo kỳ vọng, bất kể “sự thay đổi” có mang một nghĩa tuyệt đối hay không. Nếu giả sử quá trình chuyển mùa bỗng ngừng lại và sau một ngày nhất định thời tiết không thay đổi, thì dĩ nhiên điều này vẫn thể hiện một sự thay đổi dữ liệu theo cách hiểu của chúng ta, nghĩa là, một sự thay đổi tương đối so với kỳ vọng, mặc dù theo nghĩa tuyệt đối, nó không biểu hiện sự thay đổi mà là sự vắng mặt sự thay đổi. Dù thế nào điều này có nghĩa là chúng ta chỉ có thể nói về một sự thay đổi dữ liệu nếu như cân bằng theo cách hiểu thứ nhất tồn tại, tức là, nếu các kỳ vọng hội tụ. Nếu giả sử chúng đối nghịch, bất kỳ sự phát sinh các sự kiện bên ngoài nào sẽ có thể thỏa mãn kỳ vọng của một số người và làm thất vọng những người khác, và việc xác định đâu là sự thay đổi trong dữ liệu khách quan sẽ là điều không thể2.
5
Do vậy, chúng ta có thể nói về một trạng thái cân bằng tại một thời điểm cho một xã hội - nhưng điều này chỉ có nghĩa là tồn tại một sự tương hợp giữa những kế hoạch hành động khác nhau mà các cá nhân cấu thành xã hội đó xây dựng nên vào đúng thời điểm đó. Và một khi sự cân bằng đó hiện hữu, nó sẽ tiếp tục tồn tại chừng nào các dữ liệu bên ngoài còn tương ứng với những kỳ vọng chung của mọi thành viên của xã hội. Sự tiếp tục trạng thái cân bằng theo nghĩa này do vậy không phụ thuộc vào dữ liệu khách quan không đổi theo nghĩa tuyệt đối và không nhất thiết bị bó hẹp trong một quá trình ổn định (stationary process). Trên nguyên tắc, phân tích cân bằng có thể áp dụng cho một xã hội thăng tiến (progressive society) và cho những mối quan hệ giá cả liên thời vốn dĩ đã gây ra cho chúng ta quá nhiều vấn đề trong thời gian gần đây3.
Những nhận định này có lẽ giúp làm sáng tỏ đáng kể những mối quan hệ giữa cân bằng và khả năng tiên đoán được tranh luận khá sôi nổi trong thời gian gần đây4. Dường như khái niệm cân bằng chỉ đơn thuần hàm ý rằng tiên đoán của các thành viên khác nhau trong xã hội sẽ trở nên chuẩn xác theo một nghĩa xác định nào đó. Nó phải chuẩn xác theo nghĩa kế hoạch của từng người được xây dựng dựa trên kỳ vọng về các hành động được dự định thực hiện bởi những người khác và tất cả các kế hoạch này được dựa trên kỳ vọng về cùng một tập sự kiện bên ngoài, sao cho dưới một số điều kiện nhất định không ai có bất kỳ lí do gì để thay đổi các kế hoạch của mình. Như vậy, tiên đoán chuẩn xác không phải là một điều kiện ban đầu buộc phải có để đạt được trạng thái cân bằng như thỉnh thoảng vẫn được hiểu. Đúng ra, đó là đặc điểm đặc trưng của một trạng thái cân bằng. Vì mục đích này, cũng không cần khả năng tiên đoán phải hoàn hảo theo nghĩa là cần phải mở rộng tới tương lai vô hạn, hay là mọi người phải dự tính mọi thứ chuẩn xác. Thay vì vậy chúng ta nói rằng cân bằng sẽ tiếp diễn miễn là những dự tính trở nên chuẩn xác và rằng chúng chỉ cần phải chuẩn xác về những điểm liên quan tới các quyết định của những cá nhân. Nhưng nội dung tiên đoán hoặc tri thức liên quan là gì, xin xem phần gần cuối.
Trước khi trình bày tiếp, tôi muốn dừng lại đôi chút để đưa ra một ví dụ cụ thể minh họa cho cái tôi vừa nói về nghĩa của một trạng thái cân bằng và do đâu nó có thể bị nhiễu loạn. Hãy xem xét các khâu chuẩn bị trong lĩnh vực xây cất nhà cửa ở bất kỳ thời điểm nào. Những người sản xuất gạch, lắp đặt hệ thống nước, và những người khác nữa, tất cả sẽ sản xuất các loại vật liệu tương ứng với một số lượng nhất định những ngôi nhà mà khi xây dựng chỉ đòi hỏi những loại vật liệu cụ thể này. Tương tự chúng ta có thể hình dung những người mua tiềm năng với các khoản tiết kiệm tích lũy mà sẽ cho phép họ ở những thời điểm nhất định có khả năng mua một số hữu hạn ngôi nhà. Nếu tất cả những hoạt động này thể hiện sự chuẩn bị cho quá trình xây dựng (và mua) cùng một số lượng ngôi nhà, chúng ta có thể nói là tồn tại sự cân bằng giữa các hoạt động này theo nghĩa những người liên quan nhận thấy họ có thể tiến hành các kế hoạch của mình5. Nhưng mọi việc không nhất nhất phải diễn ra như thế, vì các tình huống không thuộc kế hoạch hành động của họ có thể thay đổi khác với cái mà họ mong đợi. Một phần những vật liệu này có thể bị phá hỏng vì một sự kiện bất thường, điều kiện thời tiết có thể khiến cho không thể tiến hành việc xây dựng, hay một sáng chế có thể làm thay đổi tỉ lệ sử dụng các yếu tố sản xuất khác nhau. Đây là cái mà chúng ta gọi là một sự thay đổi trong dữ liệu (khách quan) làm nhiễu loạn cân bằng đã tồn tại. Nhưng nếu giả sử ngay từ lúc khởi đầu các kế hoạch khác nhau đã không tương hợp thì sự đổ vỡ và việc phải thay đổi kế hoạch của một vài người sẽ là điều không thể tránh khỏi, và hệ quả là tổng thể các hành động trong thời kỳ sẽ không có được những đặc điểm mà lẽ ra sẽ xuất hiện trong trường hợp tất cả các hành động của mỗi cá nhân được coi như một phần của một kế hoạch cá nhân được cá nhân đó xây dựng từ lúc bắt đầu6.
(còn nữa)
Chú thích:
(1) Trong một thời gian dài tôi tự hỏi tại sao, theo hiểu biết của tôi, lại không có những cố gắng hệ thống trong xã hội học để phân tích các mối quan hệ xã hội theo nghĩa tương ứng và không tương ứng, hay có khả năng tương hợp và không có khả năng tương hợp, về những mục tiêu và mong muốn riêng lẻ. Dường như phương pháp topo toán học, và cụ thể là các khái niệm được phát triển bằng phương pháp này như phép đồng phôi (homemorphism), tỏ ra hữu dụng trong chuỗi phân tích này, mặc dù có thể nảy sinh nghi ngờ liệu ngay cả phương pháp này, ở bất kỳ mức phát triển hiện tại nào của nó, có đủ để giải quyết sự phức tạp của các cấu trúc chúng ta đang phải đương đầu ở đây. Cố gắng đầu tiên theo hướng này được một nhà toán học xuất chúng (Karl Menger, Moral, Wille und Weltgestaltung, Vienna, 1934) thực hiện gần đây vẫn chưa đem lại những kết quả rõ ràng. Nhưng chúng ta có thể trông đợi vào luận thuyết về lí thuyết xã hội học chính xác mà Menger hứa hẹn sẽ đưa ra trong tương lai gần (xem, "Einige neuere Fortschritte in der exakten Behandlung sozialwissenschaftlicher Probleme”, trong Neuere Fortschritte in den exakten Wissenschaften, Vienna, 1936, tr. 132.).
(2) Xem bài viết của tôi, "The Maintenance of Capital”, Economica, Vol. II, 1935, tr. 265.
(3) Sự tách biệt khái niệm cân bằng này khỏi khái niệm về một trạng thái ổn định (stationary state) đối với tôi dường như là kết quả tất yếu của một quá trình đã diễn ra trong một thời gian đủ dài. Ngày nay, có vẻ người ta cảm thấy mối quan hệ giữa hai khái niệm này không thực chất mà chỉ do các lí do lịch sử. Nếu việc tách biệt hoàn toàn chưa có hiệu lực, rõ ràng chỉ bởi vì chúng ta vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa thay thế cho một trạng thái cân bằng để có thể thể hiện dưới dạng tổng quát những loại định đề phân tích cân bằng mà độc lập về bản chất với khái niệm một trạng thái ổn định. Song hiển nhiên là hầu hết các định đề về phân tích cân bằng không có ý định giới hạn phạm vi ứng dụng chỉ dưới dạng trạng thái ổn định mà có lẽ sẽ không bao giờ đạt được. Quá trình tách biệt có lẽ đã được bắt đầu bởi Marshall với sự phân biệt giữa cân bằng dài hạn và ngắn hạn. So sánh các mệnh đề tương tự như: "vì bản thân bản chất của sự cân bằng, và bản chất của các nguyên nhân xác định nó, phụ thuộc vào độ dài của thời kỳ mà thị trường mở rộng" (Principles, Vol. I, 6, 7th ed., tr. 330). Ý tưởng một trạng thái cân bằng mà không phải là một trạng thái ổn định đã được đưa ra trong bài viết của tôi: "Das intertemporale Gleichgewichts-system der Preise und die Bewegungen des Geldwerters”, (Weltwirtschaftlicies Archiv, Vol. XXVIII, June, 1928), và tất nhiên là cần thiết nếu chúng ta muốn sử dụng hệ thống cân bằng để giải thích bất kỳ hiện tượng nào liên quan tới "đầu tư”. Về tổng thể vấn đề này, với nhiều thông tin lịch sử, có thể tìm thấy trong bài viết của E. Schams, "Komparative Statik" (Zeitschrift fur Nationalokonomie, Vol. II, No. 1, 1930).
(4) Cụ thể xem Oshr Morgenstern, "Vollkommene Voraussicht und wirtschaftliches Gleichgewicht", Zeitschrift fur Nationalokonomie, Vol. VI, 1934, tr. 3.
(5) Một ví dụ khác có ý nghĩa hơn là về mối quan hệ tương ứng giữa "đầu tư" và "tiết kiệm" theo nghĩa tỉ lệ (dưới dạng chi phí tương đối) mà các nghiệp chủ cung cấp hàng hóa tư liệu sản xuất và hàng hóa tiêu dùng trong một thời điểm cụ thể, và tỉ lệ mà người tiêu dùng nói chung tại thời điểm đó sẽ phân phối nguồn lực của họ giữa hàng hoá tư liệu sản xuất và hàng hóa tiêu dùng (xem hai bài luận của tôi, "Preiserwartungen, monetare Storungen und Fehlinvestitionen”, Ekonomisk Tidskrift, Vol. 34, 1935 (Bản dịch tiếng Pháp: "Previsions de Prix, Pertubations Monetaires et Faux Investissements”, Revue des Sciences Economiques, October, 1935), và "The Maintenance of Capital”, Economica, Vol. II, 1935, tr. 268-273). Về điểm này, có lẽ nên đề cập đến nghiên cứu của nhà xã hội học vĩ đại người Pháp G. Tarde trong lĩnh vực lí thuyết khủng hoảng - lĩnh vực nghiên cứu giúp tôi đưa ra các ý tưởng trong bài viết này. Tarde đã nhấn mạnh "sự mâu thuẫn của niềm tin" hay "sự mâu thuẫn của phán xét" hay "sự mâu thuẫn của hi vọng" là nguyên nhân chính của những hiện tượng này (Psychologie economique, Paris, 1902, Vol. II, tr. 128-29; cũng xem N. Pinkus, Das Problem des Normalen in der Nationalokonomie, Leipzig, 1906, tr. 252 và 275).
(6) Có một câu hỏi thú vị mà tôi không thể bàn luận ở đây là, để chúng ta có thể nói về trạng thái cân bằng thì phải chăng điều kiện sẽ là mọi cá nhân đơn lẻ buộc phải đúng hay phải chăng vẫn là chưa đủ nếu như, do việc bù đắp các sai phạm theo những hướng khác nhau, các hàng hoá khác nhau đưa vào thị trường với đúng những lượng cứ như thể mọi cá nhân đều đúng. Theo tôi thì cân bằng theo nghĩa chặt sẽ đòi hỏi phải thoả mãn điều kiện thứ nhất, nhưng tôi cũng có thể tưởng tượng được là một khái niệm rộng hơn, mà đòi hỏi chỉ điều kiện thứ hai, có lẽ đôi khi hữu dụng. Bàn luận vấn đề này chi tiết hơn sẽ phải xem xét câu hỏi tổng thể về ý nghĩa mà một vài nhà kinh tế (bao gồm cả Preto) gắn cho quy luật số lớn (the law of great numbers) trong chuỗi phân tích này. Về khía cạnh tổng quát xem P. N. Rosenstein-Rodan, "The Coordination of the General Theories of Money and Price", Economica, tháng 8, 1936.
Nguồn: F.A. Hayek, Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế, Chương 2, NXB Tri thức, 2016