![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 4)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.29_(1).jpg)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 4)
Xu hướng tội ác trong lịch sử
Về mặt lí thuyết, cấm đoán làm gia tăng tội phạm từ cả phía “cung” lẫn phía “cầu”. Về mặt thống kê, chúng ta cũng nghĩ rằng tội phạm tăng vì có thêm những “tội ác” do cấm đoán gây ra và các tội ác kèm theo của nền kinh tế ngầm, ví dụ như những tội ác liên quan tới việc xác định khu vực của thị trường và thực hiện các hợp đồng. Các công trình nghiên cứu thực nghiệm về nguyên nhân của tội ác và thay đổi về mức độ phạm tội là công việc cực kì khó khăn và thiếu chính xác. Một cái nhìn tổng quan về các xu hướng của tội ác trong lịch sử cho ta cơ hội đánh giá những lí thuyết khác nhau về tội ác và mối quan hệ bị bỏ qua giữa tội ác và cấm đoán. Theo cách tiếp cận kinh tế học (quá trình thị trường) đối với tội ác thì phát triển kinh tế sẽ dẫn đến ít hoạt động tội phạm hơn, còn cấm đoán sẽ tạo ra nhiều tội ác hơn (bên cạnh những hành vi vi phạm cấm đoán). Sự gia tăng tội ác được đoán trước do cấm đoán gây ra là hàm số của cả mức độ thực thi luật pháp và nhu cầu căn bản về các sản phẩm bị cấm đoán.
Học thuyết Marxist về tội ác là một trong những xu hướng nghiên cứu chủ yếu về hành vi phạm tội. Lí thuyết này cho rằng phát triển kinh tế làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và gia tăng tốc độ của các “cuộc khủng hoảng”. Người lao động phản ứng lại với hiện tượng bóc lột, vong thân, đô thị hóa và khủng hoảng bằng cách thực hiện nhiều tội ác hơn nhằm chống lại chủ nghĩa tư bản và tầng lớp thượng lưu. Để hỗ trợ cho lí thuyết của mình, những người theo chủ nghĩa Marxist nhìn vào sự gia tăng tội ác trong thế kỷ XIX và trong các nước tư bản chủ nghĩa thời gian gần đây. Lynn McDonald (1976) cho thấy sự đồng thuận rằng, cả các lí thuyết gia sinh học và lí thuyết gia về xung đột đều đồng ý rằng các tội ác có liên quan đến phát triển kinh tế (vì những lí do khác nhau) và tỉ lệ phạm tội đã tăng trong suốt thế kỷ XIX.
Thế kỷ XIX thực sự là thời kì đơm hoa kết trái cho chủ nghĩa tư bản, nhưng đấy không phải là một nền kinh tế thị trường hoàn toàn. Người ta đã gieo vào lĩnh vực ngân hàng, giao thông vận tải và giáo dục những hạt giống cho sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ. Cũng cần nói về một số điểm liên quan đến bằng chứng về tội ác, mà bằng chứng này được cho là ủng hộ cho chủ nghĩa Marx. Trước hết, đô thị hóa và phát triển kinh tế trong giai đoạn giữa những năm 1830 và thế kỷ XX diễn ra đồng thời với việc giảm tỉ lệ tội ác nghiêm trọng và có tính bạo lực. Thứ hai, tội ác gia tăng phần lớn là do tăng những tội ác không nghiêm trọng vì dụ như say rượu ở nơi công cộng. Xã hội đô thị dường như ít khoan dung với những hành vi sai lầm vì mật độ dân số gia tăng và hoạt động kinh tế trở nên có tổ chức hơn. Thứ ba, trong nửa sau của thế kỷ XIX, lực lượng cảnh sát đã được thành lập tại các đô thị lớn. Điều này chắc chắn đã dẫn đến sự gia tăng ca nhận thức về những hoạt động tội phạm lẫn việc thu thập các số liệu thống kê về tội ác (Lane 1968). Thứ tư, và quan trọng nhất người ta đã phát hiện ra rằng trong thế kỷ XIX, ở các nước tư bản lớn, trong đó có Mĩ, mức độ tội phạm giảm chứ không tăng (McDonald 1982). Hai điểm sau cùng này ám chỉ rằng, trái ngược với những lời giải thích của những người ủng hộ Marx, sự phát triển của tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là tội ác giảm và có thêm các cơ chế kiểm soát xã hội.
Một trong những ví dụ đầu tiên về ảnh hưởng của cấm đoán đối với tội ác (và xa rời chủ nghĩa tư bản) là luật kiểm soát rượu ở bang Massachusetts từ năm 1838 đến năm 1840. Mặc dù luật cấm này đặt ra yêu cầu mua tối thiểu 15 gallon (1 gallon = 3,785 lít, ND) và chỉ có hiệu lực trong vòng hai năm, một số bài học vẫn còn nguyên giá trị. Việc đòi hỏi tối thiểu 15 gallon có thể được coi là nỗ lực trong việc sử dụng tiến trình chính trị nhằm kiểm soát xã hội ngay lập tức, trong khi đó, trong chủ nghĩa tư bản việc này chỉ có thể phát triển một cách từ từ và theo những phương pháp nhất định. Tuy nhiên, thái độ thiếu kiên nhẫn với chủ nghĩa tư bản lại phản ánh lòng khoan dung chung của mọi người đã giảm đối với những hành động gây rối ở chỗ công cộng như đã đề cập ở trên.
Nếu cấm đoán là kết quả tự nhiên của thái độ bất dung thì hiệu quả mà nó dự định – trong ngắn hạn – sẽ không thể nào đạt được. Trong thời đại ồn ào hơn này, những lực lượng chống phong trào vận động không uống rượu phản đối tất cả những thứ mà họ coi là gây hấn nhằm chống lại các quyền của họ (ví dụ, pháp luật hạn chế uống rượu) với thái độ hung hăng. Robert L. Hampel (1982, 90) nhận xét rằng tội phạm gia tăng khi pháp luật ngăn chặn việc sử dụng rượu bia trở nên cứng rắn hơn. “Trước và sau khi thử nghiệm những biện pháp cấm đoán, phá hoại và chế giễu là những biện pháp quấy rối chủ yếu. Cạo đuôi ngựa, bóc vỏ cây hoặc bôi bác mặt tiền nhà là những việc mà những người chống luật ngăn chặn rượu bia thường làm. Nhưng sau khi Luật 15 gallon được thông qua thì tấn công vào thân thể và những cuộc biểu tình đông người ngày càng trở nên phổ biến”.
Thực thi Luật 15 gallon là công việc vừa khó khan vừa tốn kém. Tổng số vụ tội phạm, đặc biệt là tội vi phạm giấy phép bán rượu, tăng đáng kể. Số lượng các vụ vi phạm gia tăng, đến lượt nó, làm cho việc xử án diễn ra chậm hơn và làm giảm rất nhanh số lượng bản án được tuyên về tất cả các loại tội phạm (Hampel 1982, 99-100). Giai đoạn thi hành biện pháp cấm đoán ngắn ngủi này đã tạo ra nhiều tội ác hơn, tội ác mang tính bạo lực hơn, tòa xử chậm hơn và số bản án được tuyên về tất cả các loại tội phạm khác cũng giảm đi.
Trái ngược với quan điểm và những ấn tượng ban đầu cho rằng tội phạm giảm khi kinh tế phát triển. Eric H. Monkkonen (1981) đã xem lại các công trình nghiên cứu về tội phạm trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và phát hiện ra rằng chỉ có hai công trình nghiên cứu (sử dụng dữ liệu từ một thành phố) là mâu thuẫn với xu hướng tội phạm giảm. Chuyện đó chỉ xảy ra trong thời kì Cấm Rượu, tức là giai đoạn bắt đầu có những hiện tượng dị thường trong thống kê tội phạm trên toàn quốc. Ví dụ, Monkkonen (1981, 555) ghi nhận rằng từ trước năm 1870 đến 1939 tỉ lệ tội phạm bị kháng cáo tính theo phần trăm đã giảm trừ thập kỷ 1920. Có thể giả định một cách hợp lí rằng tỉ lệ tội phạm nghiêm trọng đã giảm vì các vụ này thường được cho
phép kháng cáo.
Một số nhà quan sát cho rằng “làn sóng tội phạm" trong giai đoạn Cấm Rượu chỉ đơn thuần là cảm giác, là sản phẩm của sự cường điệu đến từ các phương tiện thông tin đại chúng. Ngay cả người chống Luật cấm rượu hàng đầu, Tiến sĩ Fabian Franklin, cũng nói rằng “làn sóng tội phạm là trạng thái của tâm trí” (trích trong Fisher năm 1928, 76). Nhưng các nhà quan sát, như Franklin, không thể nói được bản chất của sự thay đổi trong thành phần của tội phạm, sự suy giảm trong thời gian dài tỉ lệ tội phạm trước khi có Luật cấm rượu và những biến động xã hội xảy ra cùng với Thế chiến I.
Ví dụ, Franklin nhận xét rằng trong giai đoạn 1910-1923, tỉ lệ tội phạm đã giảm 37,7%. Nhưng đây là do sự sụt giảm những tội ác ít nghiêm trọng – tội ác liên quan đến bạo lực hoặc trộm cắp tài sản lại tăng 13,2%. Trong giai đoạn này, tội giết người tăng 16,1%, cướp của tăng 83,3%, trong khi tội phạm như sống lang thang và tội lặt vặt giảm hơn 50% (Fisher 1928, 77). Trong khi không thừa nhận tầm quan trọng những tội ác do cấm rượu và ma túy gây ra, thì Franklin lại lưu ý tỉ lệ những vụ giết người gia tăng có thể liên quan đến “buôn lậu” (trích trong Fisher, 1928, 80).
Chính Fisher lại gợi ý rằng những thay đổi trong thống kê tội phạm có thể là do những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận mới do Luật cấm rượu và Luật phòng chống ma túy Harrison tạo ra. “Đề xuất thú vị” của Fisher chủ yếu là để giải thích số liệu thống kê tội phạm trong giai đoạn Cấm Rượu theo quan điểm kinh tế học hoặc vòng quay thị trường. Thứ nhất, tội ác nghiêm trọng đã giảm trong giai đoạn phát triển kinh tế kéo dài (khoảng năm 1800 đến năm 1910), trong khi tội phạm ít nghiêm trọng lại tăng. Mức sống cao hơn, tuổi thọ tăng lên và đô thị hóa gia tăng làm cho người ta ít khoan dung hơn với những hành vi bất lịch sự nơi công cộng. Như vậy là, tội phạm lặt vặt gia tăng một phần là do có quá nhiều hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy mà tội phạm lặt vặt giảm và tội phạm nghiêm trọng gia tăng trong giai đoạn tiếp theo có thể là do những biện pháp cấm đoán đã tạo ra thêm những cơ hội phạm tội.
Warburton (1932) đưa ra bằng chứng chứng tỏ rằng trong giai đoạn từ năm 1910 đến năm 1933 tỉ lệ những vụ giết người (ở các thành phố lớn) gia tăng đáng kể; đây là giai đoạn diễn ra làn sóng cấm đoán thứ ba của nhà nước (1910-1919), trong đó có Luật phòng chống ma túy Harrison (1914), hạn chế uống rượu trong thời gian chiến tranh (1918-1919), và Cấm Rượu (1920-1933). Số lượng tù nhân liên bang gia tăng cho ta thêm bằng chứng về việc tội ác nghiêm trọng đã gia tăng trong giai đoạn Cấm Rượu. Số lượng tù nhân trong các nhà tù liên bang, các trường giáo dưỡng và các trại tù đã tăng từ 3.889 vào năm 1920 lên 13.698 vào năm 1932 (Wooddy, 1934, 90-99).
Tội phạm gia tăng trong những năm 1920 đã được một số người mô tả mà không nhắc đến Luật cấm rượu. Ví dụ, John A. Pandiani (1982) nhận xét: “Một làn sóng tội phạm nguy hiểm dường như đã bắt đầu từ giữa những năm 1920 [và] liên tục gia tăng cho mãi đến năm 1933... đấy là khi nó tự rút lui một cách đầy bí ẩn” (349). Sự sụt giảm đột ngột mức độ tội phạm là hiện tượng bí ẩn đối với nhiều nhà quan sát bởi họ vẫn thiên về cách tiếp cận của Marx và cách tiếp cận chu kì kinh doanh về tội phạm. Số liệu thống kê tội phạm do Theodore A. Ferdinand (1967) đưa ra còn tường thuật chi tiết sự sụt giảm đầy ấn tượng và “bí ẩn”, bắt đầu vào năm 1933 và kéo dài suốt những năm 1930.
Andrew F. Henry và James F. Short (1954) đã cố gắng chỉ ra rằng tội phạm gia tăng trong những 1929-1933 là kết quả của những thay đổi trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên Philip J. Cook và Gary A. Zarkin (1985) đã phát hiện ra rằng “những thay đổi lớn về tỉ lệ tội phạm tính trong nửa thế kỷ qua không phải là do chu kì kinh doanh” (128). Pandiani (1982) đã tìm cách giải thích hiện tượng tội phạm đã giảm bắt đầu từ năm 1933 bằng cách chỉ ra rằng Quân đoàn bảo vệ dân sự (CCC) đã đưa nhiều tội phạm tiềm năng ra khỏi xã hội.
Sự thăng trầm trong hoạt động kinh tế và những chương trình lớn của chính phủ ví dụ như CCC chắc chắn là có vai trò trong con số thống kê tội phạm, nhưng Luật cấm rượu dường như là lời giải thích có ý nghĩa quan trọng cho những thay đổi về mức độ tội phạm và các loại tội phạm. Việc bãi bỏ Luật cấm rượu dường như là lời giải thích tốt nhất cho sự đảo chiều đầy ấn tượng vào năm 1933 và sụt giảm tội phạm trong một thời gian dài. Hai lí thuyết kia khó giải thích được sự giảm thiểu liên tục tội phạm trong những năm 1930.
Tiếp tục đà sụt giảm trong hoạt động tội phạm sau năm 1933 không phải là kết quả của sự thiếu vắng tất cả các biện pháp cấm đoán, mà là do việc bãi bỏ biện pháp cấm đoán quan trọng nhất – cấm rượu. Luật phòng chống ma túy Harrison vẫn được áp dụng và năm 1937 cần sa đã bị cấm. Nhưng so với tiêu thụ rượu thì sử dụng ma tuý và cần sa là không đáng kể. Ngân sách cho việc thực thi luật phòng chống ma tuý và cần sa bị cắt giảm và công việc thực thi bị buông lỏng. Ngoài ra, sau khi bãi bỏ Luật cấm rượu, giá rượu giảm đã cung cấp chất thay thế giá rẻ cho các loại ma túy bất hợp pháp.
Theo lí thuyết cho rằng tội phạm là do các chất làm người ta say sưa, ví dụ như rượu, thì việc dễ dàng tiếp cận với rượu sau khi Luật cấm rượu bị bãi bỏ phải làm cho tội phạm gia tăng. Như Cook và Zarkin (1985, 117) nhận xét: “Từ lâu người ta đã nghĩ rằng say rượu là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tính bạo lực”. Nhưng bằng chứng mà họ đưa ra lại cho thấy tội giết người, trộm cắp, cướp bóc và trộm cắp ô tô giảm sau khi Luật cấm rượu bị bãi bỏ. Số vụ giết người trên toàn quốc đã giảm từ năm bãi bỏ Luật cấm rượu cho đến đầu những năm 1960. Eric H. Monkkonen (1981, 556-57) nhận xét rằng sự quay lại với số lượng rượu tiêu thụ bình quân đầu người ngày càng gia tăng sau khi Luật cấm rượu bị bãi bỏ có liên quan tới Sự kiện là số vụ bắt giữ vì say rượu và hành vi gây mất trật tự ngày càng giảm đi. Dù thế nào thì việc tiêu thụ rượu dường như là lời giải thích không thuyết phục; nhưng người ta thường nghĩ nó có ảnh hưởng xấu đối với tỉ lệ tội phạm.
Giữa những năm 1960, khi những biện pháp cấm đoán một lần nữa lại trở thành chính sách quan trọng, tỉ lệ tội phạm lại một lần nữa lệch ra khỏi những xu hướng đã diễn ra trong một thời gian dài. Trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam, quân nhân thường tiếp xúc với ma túy, phong trào phản chiến và những yếu tố về nhân khẩu học làm gia tăng nhu cầu về các loại ma túy, ví dụ như cần sa. Những nỗ lực được tăng cường nhằm ngăn chặn những thị trường này đã khởi động cái mà sau này được gọi là cuộc chiến chống ma túy. James Q. Wilson và Richard J. Herrnstein (1985, 409) nhận xét rằng số vụ giết người bắt đầu tăng từ giữa những năm 1960 và sau đó gia tăng ở mức mà báo động. Theo số liệu thống kê tội phạm trên toàn quốc, số vụ giết người, trộm cắp, cướp bóc và trộm ô tô – trước đó đã giảm - bắt đầu gia tăng trong những năm 1960. Tội phạm gia tăng nhanh chóng trong những năm cuối 1960, làm cho chính quyền Nixon phải khởi động chiến dịch trấn áp ma túy. Số vụ tội phạm
tiếp tục tăng trong suốt những năm 1970 và 1980.
Cấm đoán không phải là lí do duy nhất làm tăng tỉ lệ tôi phạm trong một phần tư thế kỷ qua. Ví dụ, triết lí của hệ thống tư pháp thay đổi, chuyển từ hình phạt, bồi thường và cách li tội phạm sang phục hồi và tái hòa nhập vào xã hội. Do đó, giò đây nhà nước hành động như một nạn nhân đóng thế trong khi không có nạn nhân thật sự và tội phạm đã trở thành nạn nhân của xã hội. Việc sử dụng ngày càng nhiều những thương lượng về lời biện hộ của bị cáo, tù án treo, bản án nhẹ hơn, đóng tiền bảo lãnh rồi cho tại ngoại, các chương trình tu dưỡng trong cộng đồng, tình trạng mất trí và giảm thiểu những biện pháp bảo vệ làm cho người ta dễ phạm tội hơn và phần nào được biện hộ là do nhà tù đã quá tải (xem Bidinotto 1989).
Tương tự như thị trường hợp pháp, cùng với thời gian, thị trường chợ đen đã có tổ chức hơn. Hai biểu hiện về mức độ chặt chẽ hơn của tổ chức là tập đoàn tội phạm và các băng nhóm đường phố. Tội phạm có tổ chức đã liên kết với cấm đoán từ khá lâu. Những biện pháp cấm đoán mại dâm, cờ bạc, cho vay nặng lãi và tiêu thụ ma túy đã trở thành cơ sở cho hầu như tất cả các tập đoàn tội phạm mà người ta từng biết. Humbert S. Nelli (1985) chỉ ra rằng những tập đoàn tội phạm phát triển trong thời kì Cấm Rượu vẫn tiếp tục sống sót trong một thời gian dài sau khi luật này bị bãi bỏ. Các băng nhóm đường phố thu được lợi và sử dụng vai trò của chúng nhằm khuếch trương trong việc tổ chức bán lẻ ma túy. Hoạt động tội phạm có tính bạo lực của chúng là kết quả nhãn tiền và ngày càng gia tăng của cuộc chiến chống ma túy trong những năm 1980 và 1990. Cuối những năm 1920, các băng nhóm cũng phát triển nhằm đáp ứng với những món lợi nhuận tiềm tàng mà Luật cấm rượu tạo ra. Năm 1930, Frederick Thrasher, một nhà xã hội học, đã lên tiếng cảnh báo về mối đe dọa đang gia tăng từ các băng nhóm. Ông lưu ý rằng sự khích lệ về kinh tế làm cho các băng nhóm hoạt động cho những thành phần tội phạm và bảo kê (Pandiani, 1982, 349).
Như Adam Smith đã dự đoán, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho tội phạm giảm. Khi kinh tế phát triển và những hiện tượng đi kèm (ví dụ, đô thị hóa) xảy ra, thì những qui định mới, hướng dẫn mới và những biện pháp kiểm soát những hành vi phản xã hội ở nơi công cộng cũng được thiết lập nhằm đối phó với sự phức tạp hơn của đời sống kinh tế. Những lệch lạc khỏi chủ nghĩa tư bản, ví dụ như cấm đoán, đã phá vỡ xu hướng làm cho tội phạm giảm đi trong dài hạn. Người ta đã chỉ ra rằng trong trong giai đoạn thi hành Luật 15 gallon ở Massachusetts, trong giai đoạn Cấm Rượu và từ cuối những năm 1960, khi việc thực thi luật cấm ma túy và cần sa trở thành nghiêm ngặt hơn thì tội phạm gia tăng và có tính chất bạo lực hơn. Hơn nữa, người ta cũng đã chỉ ra rằng tội phạm đã giảm trong những giai đoạn không có cấm đoán, mặc dù lượng tiêu thụ các chất gây say tính theo đầu người đã tăng.
Ngoài ra, lí thuyết nói rằng cấm đoán là nguyên nhân gây ra tội ác đã được những quan sát của Johnson và các đồng nghiệp của ông (1985) xác nhận. Họ đã tìm thấy bằng chứng thực tế rõ ràng rằng cấm đoán ma tuý có thể có liên quan trực tiếp tới tôi phạm, chứ không chỉ là bán hay sử dụng ma túy bất hợp pháp. Nhưng các nhà xã hội học có xu hướng tách riêng cấm đoán khỏi công trình nghiên cứu tổng quát về tội phạm và cùng với các nhà tội phạm học và kinh tế học, họ đã không coi cấm đoán là một biến số có giá trị trong việc giải thích mức độ tội phạm. Trong khi cấm đoán chắc chắn không phải là nguyên nhân duy nhất của tội phạm, đưa nó vào nghiên cứu sẽ cải thiện cả nghiên cứu thực nghiệm của các lí thuyết về tội phạm và việc nghiên cứu các xu hướng của tỉ lệ tội phạm. Những bằng chứng thực nghiệm được khảo sát trong phần này chỉ ra rằng cấm đoán làm tội phạm gia tăng và làm cho xã hội phải trả giá đắt.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition