[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XV: Tìm hiểu sự thịnh vượng và đói nghèo (Phần 1)

[Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại - Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói] - Chương XV: Tìm hiểu sự thịnh vượng và đói nghèo (Phần 1)

NGUỒN GỐC LỊCH SỬ

CÓ SỰ KHÁC BIỆT LỚN về mức sống giữa các khu vực khác nhau trên thế giới. Ngay cả những công dân nghèo nhất của Hoa Kỳ cũng có mức thu nhập và thụ hưởng những điều kiện chăm sóc y tế, giáo dục, dịch vụ công cộng, các cơ hội kinh tế và xã hội cao hơn rất nhiều so với đại đa số những người dân sống ở vùng hạ Sahara châu Phi, Nam Á và Trung Mỹ. Sự tương phản giữa Nam và Bắc Triều Tiên, giữa hai miền của thành phố Nogales, hay giữa Hoa Kỳ và Mexico nhắc nhở chúng ta rằng sự khác biệt giàu nghèo là một hiện tượng mới xảy ra gần đây. 500 năm về trước, Mexico, quê hương của nhà nước Aztec, chắc chắn giàu hơn so với các chính thể phương bắc. Mãi đến tận thế kỷ 19, Hoa Kỳ mới vượt qua được Mexico. Trong khi đó, sự chênh lệch về mức sống giữa hai bên bờ rào của Nogales thậm chí còn gần đây hơn nữa. Giữa Nam và Bắc Triều Tiên cũng không hề có sự khác biệt về kinh tế cũng như về xã hội và văn hóa trước khi đất nước bị chia cắt ở vĩ tuyến 38 sau Thế chiến thứ hai. Tương tự như vậy, phần lớn những khác biệt kinh tế chúng ta quan sát được ngày hôm nay chỉ mới xuất hiện trong vòng 200 năm trở lại đây.

Phải chăng đây là những kết cục tất yếu? Có phải việc Tây Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ trở nên thịnh vượng hơn rất nhiều so với vùng hạ Sahara châu Phi, châu Mỹ La-tinh và Trung Quốc trong vòng 200 năm trở lại đây là điều đã được lịch sử, địa lý, văn hóa hay dân tộc định sẵn? Có phải sự kiện Cách mạng công nghiệp nổ ra ở Anh trong thế kỷ 18, sau đó lan sang Tây Âu và các thuộc địa của châu Âu ở Bắc Mỹ và châu Úc là điều không thể tránh khỏi? Liệu một giả định trái ngược với thực tế, rằng Peru chứ không phải Anh là chiếc nôi của Cách mạng Vinh quang và Cách mạng công nghiệp, sau đó biến Tây Âu thành thuộc địa và biến người da trắng thành nô lệ, là điều có thể xảy ra hay chỉ là giả tưởng lịch sử?

Để trả lời, mà thực ra cũng là để hiểu lý do mà những câu hỏi trên được đặt ra, chúng ta cần có một lý thuyết giúp giải thích tại sao một số quốc gia rất thịnh vượng trong khi những quốc gia khác lại thất bại và đói nghèo. Lý thuyết này cần phải phân định cả những yếu tố tạo ra hay trì hoãn sự thịnh vượng lẫn nguồn gốc lịch sử của những yếu tố này, và cuốn sách này nhắm tới việc đề xuất một lý thuyết như vậy. Bất cứ một hiện tượng xã hội phức tạp nào, chẳng hạn như nguồn gốc của các quỹ đạo kinh tế và chính trị khác nhau của hàng trăm chính thể trên thế giới, đều thường có nhiều nguyên nhân. Do đó, đa số các nhà khoa học xã hội tránh xa những lý thuyết chỉ dựa vào một nguyên nhân duy nhất, đơn giản và phổ quát. Thay vào đó, họ tìm kiếm những cách lý giải khác nhau cho những kết quả trông có vẻ giống nhau vào các thời điểm và các khu vực khác nhau. Tuy vậy, ở đây chúng tôi đưa ra một lý thuyết đơn giản và sử dụng nó để giải thích các đường nét chính trong quá trình phát triển kinh tế và chính trị trên thế giới kể từ cuộc Cách mạng Thời kỳ Đồ đá mới. Sự lựa chọn này không phải bắt nguồn từ một niềm tin ngây thơ vào sự tồn tại của một lý thuyết có thể giúp giải thích tất cả mọi thứ, mà được thúc đẩy bởi niềm tin vào một lý thuyết giúp chúng ta tập trung vào sự tương đồng, chấp nhận bỏ qua hoặc phải trừu tượng hóa nhiều chi tiết khá thú vị. Khi đó, một lý thuyết thành công không phải là đi vào tái tạo các chi tiết, mà mang lại những cách lý giải hữu ích và có cơ sở thực nghiệm cho hàng loạt quá trình trong khi vẫn làm sáng tỏ các yếu tố chủ chốt.

Lý thuyết của chúng tôi cố gắng đạt được mục tiêu này trên hai cấp độ. Cấp độ đầu tiên là sự phân biệt giữa các thể chế kinh tế và chính trị có tính chiếm đoạt và có tính dung hợp. Cấp độ thứ hai là giải thích lý do khiến các thể chế dung hợp chỉ xuất hiện ở một số nơi trên thế giới mà không xuất hiện ở những nơi khác. Như vậy, trong khi ở cấp độ đầu tiên, lý thuyết của chúng tôi mang lại sự diễn giải về lịch sử từ góc độ thể chế, thì ở cấp độ thứ hai, lý thuyết này giải thích về cách thức lịch sử đã định hình quỹ đạo thể chế của các quốc gia như thế nào.

Mối liên kết giữa thịnh vượng với các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp đóng vai trò trung tâm trong lý thuyết của chúng tôi. Các thể chế kinh tế dung hợp luôn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự tăng trưởng kinh tế so với các thể chế kinh tế chiếm đoạt, bởi các thể chế dung hợp thực thi tốt quyền sở hữu, tạo ra sân chơi bình đẳng và khuyến khích đầu tư vào công nghệ và kỹ năng mới giúp tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, các thể chế kinh tế chiếm đoạt được cấu trúc sao cho một nhóm thiểu số có thể chiếm đoạt nguồn lực từ nhiều người, đồng thời không bảo vệ quyền sở hữu hay không tạo ra khuyến khích đối với hoạt động kinh tế. Đến lượt chúng, các thể chế kinh tế dung hợp lại được hỗ trợ bởi, và hỗ trợ cho, các thể chế chính trị dung hợp; đó là những thể chế phân bổ quyền lực chính trị hết sức rộng rãi trên nguyên tắc đa nguyên và có thể đạt được một mức độ tập trung chính trị nhất định để thiết lập luật pháp và trật tự, làm nền tảng vững chắc cho các quyền sở hữu chắc chắn và cho nền kinh tế thị trường dung hợp. Tương tự, các thể chế kinh tế chiếm đoạt liên kết chặt chẽ với các thể chế chính trị chiếm đoạt, tập trung quyền lực vào tay một số ít người; và những người này sẽ có động cơ duy trì và phát triển các thể chế kinh tế chiếm đoạt phục vụ lợi ích riêng, đồng thời sử dụng nguồn lực chiếm đoạt được để củng cố quyền lực mà họ nắm giữ.

Những xu hướng này không có nghĩa là các thể chế kinh tế và chính trị chiếm đoạt không nhất quán với tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu các yếu tố khác không đổi, thì giới quyền thế ở khắp mọi nơi đều muốn khuyến khích tăng trưởng càng nhiều để có thể chiếm đoạt nhiều hơn. Thông thường, những thể chế chiếm đoạt sau khi đã đạt được một mức độ tập trung chính trị tối thiểu nào đó sẽ có thể tạo ra một mức tăng trưởng nhất định. Tuy vậy, điều quan trọng là sự tăng trưởng dưới thể chế chiếm đoạt khó duy trì lâu dài bởi hai lý do chính. Trước hết, tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi sự phát minh đổi mới, mà đổi mới thì luôn đi kèm với sự phá hủy sáng tạo, nghĩa là thay thế cái cũ bằng cái mới trong lĩnh vực kinh tế, nhưng đồng thời làm những mối quan hệ quyền lực đã được thiết lập trên chính trường trở nên mất ổn định. Do giới quyền thế thống trị trong các thể chế chiếm đoạt luôn lo sợ sự phá hủy sáng tạo nên họ sẽ chống lại nó, và như vậy, bất kỳ sự tăng trưởng nào nảy mầm trong các thể chế chiếm đoạt cuối cùng cũng sẽ không tồn tại lâu dài. Thứ hai, việc những người thống trị trong các thể chế chiếm đoạt có khả năng hưởng lợi to lớn bằng tổn thất của các thành phần còn lại trong xã hội đồng nghĩa với việc đây là một quyền lực chính trị mà ai cũng thèm muốn, vì thế, các nhóm và các cá nhân sẽ đấu đá lẫn nhau để tranh giành quyền lợi đó. Kết quả là luôn có những áp lực mạnh mẽ thúc đẩy những xã hội theo thể chế chiếm đoạt hướng tới tình trạng bất ổn chính trị. Sự liên kết chặt chẽ giữa các thể chế kinh tế chiếm đoạt và các thể chế chính trị chiếm đoạt tạo ra một vòng xoáy đi xuống: một khi các thể chế chiếm đoạt đã được thiết lập thì sẽ có xu hướng tiếp tục tồn tại và duy trì. Tương tự như vậy, có một vòng xoáy đi lên giữa các thể chế kinh tế dung hợp và các thể chế chính trị dung hợp. Tuy nhiên, không có vòng xoáy nào là tuyệt đối. Trên thực tế, một vài quốc gia ngày nay sống trong các thể chế dung hợp là vì cho dù các thể chế chiếm đoạt từng thịnh hành trong lịch sử đất nước họ, một vài xã hội đã phá vỡ khuôn mẫu và chuyển hóa sang các thể chế dung hợp. Chúng tôi cho rằng sự chuyển hóa này mang tính lịch sử, nhưng không phải do lịch sử định sẵn. Sự thay đổi to lớn về thể chế, điều kiện tiên quyết cho những thay đổi về kinh tế, diễn ra do sự tương tác giữa những thể chế hiện có và những thời điểm quyết định. Thời điểm quyết định chính là những sự kiện lớn phá vỡ thế cân bằng kinh tế - chính trị trong một hay nhiều xã hội, chẳng hạn như nạn dịch hạch (có lẽ đã cướp đi sinh mạng của một nửa dân số ở nhiều vùng trên khắp châu Âu vào thế kỷ 14); hay việc khai thông Con đường thương mại Đại Tây Dương (đã tạo ra những cơ hội lợi nhuận béo bở cho nhiều quốc gia Tây Âu); hay cuộc Cách mạng công nghiệp, mang lại tiềm năng thay đổi nhanh chóng cấu trúc các nền kinh tế trên thế giới, nhưng đồng thời cũng gây ra sự phá hủy.

Những khác biệt về thể chế hiện có trong các xã hội ngày nay là kết quả của những thay đổi thể chế trong quá khứ. Vậy thì tại sao con đường thay đổi thể chế giữa xã hội này với xã hội khác lại có sự khác biệt? Câu trả lời nằm ở sự phân hóa thể chế. Cũng hệt như gien di truyền của các cộng đồng cá thể biệt lập sẽ dần dần trở nên trôi giạt ra xa nhau do sự đột biến ngẫu nhiên trong quá trình tiến hóa hay phân hóa gien, hai xã hội tương đồng cũng sẽ trôi giạt ra xa nhau về mặt thể chế, dẫu rằng quá trình này diễn ra tương đối chậm. Xung đột về thu nhập và quyền lực, và sâu xa hơn là xung đột về thể chế, vốn xảy ra triền miên trong mọi xã hội. Sự xung đột này thường có một kết quả ngẫu nhiên, ngay cả khi nó xảy ra trong một sân chơi không bình đẳng. Kết quả của sự xung đột này dẫn đến sự trôi giạt thể chế. Nhưng đây không nhất thiết là một quá trình có tính chất tích lũy. Nói cách khác, không thể suy luận rằng những khác biệt nho nhỏ xuất hiện vào một thời điểm nào đó nhất thiết sẽ lớn dần theo thời gian. Trái lại, như thảo luận trong chương 6 về nước Anh thời kỳ La Mã chiếm đóng cho thấy, những thay đổi nhỏ thường xuất hiện, biến mất, rồi sau đó sẽ xuất hiện trở lại. Tuy vậy, khi thời điểm quyết định đã điểm, những khác biệt nho nhỏ vốn là kết quả của quá trình trôi giạt thể chế có thể sẽ trở nên quan trọng, dẫn tới sự phân hóa triệt để giữa những xã hội tương đồng.

Trong hai chương 7 và 8, chúng ta đã thấy rằng mặc dù giữa Anh, Pháp và Tây Ban Nha có nhiều điểm tương đồng, nhưng thời điểm quyết định của việc khai thông Con đường thương mại Đại Tây Dương đã có tác động chuyển hóa nước Anh nhiều nhất trong ba quốc gia này. Đó là do những khác biệt nhỏ - cụ thể là, do những diễn biến phát triển trong thế kỷ 15 và 16, Hoàng gia Anh đã không có khả năng kiểm soát hết các hoạt động thương mại hải ngoại, bởi hầu hết các hoạt động này là độc quyền của Hoàng gia Pháp và Tây Ban Nha. Kết quả là ở Pháp và Tây Ban Nha, kẻ hưởng lợi nhiều nhất từ Con đường thương mại Đại Tây Dương và quá trình bành trướng thuộc địa chính là hoàng gia và các nhóm liên kết với hoàng gia, trong khi ở nước Anh, chính những thành phần chống đối triều đình mới là người hưởng lợi từ các cơ hội kinh tế được mở ra vào thời điểm quyết định này. Mặc dù sự trôi giạt thể chế chỉ dẫn đến những khác biệt nhỏ nhặt, nhưng sự tác động qua lại giữa sự trôi giạt này với các thời điểm quyết định sẽ dẫn đến sự phân hóa thể chế; rồi sau đó, chính sự phân hóa thể chế sẽ tạo ra những khác biệt thể chế to lớn hơn, và bản thân những khác biệt to lớn ấy sẽ bị ảnh hưởng bởi thời điểm quyết định tiếp theo.

Lịch sử là yếu tố then chốt, vì chính quá trình lịch sử, thông qua sự trôi giạt thể chế, đã tạo ra những điểm khác biệt có thể có ảnh hưởng quyết định vào những thời điểm quyết định. Các thời điểm quyết định này là các bước ngoặt lịch sử. Và các vòng xoáy đi lên hay đi xuống thôi thúc chúng ta phải nghiên cứu lịch sử để tìm hiểu bản chất của những khác biệt về thể chế hình thành trong lịch sử. Tuy vậy, giả thuyết của chúng tôi không ngụ ý sự tiền định về mặt lịch sử hay bất cứ một thuyết tiền định nào. Đó cũng là lý do mà câu trả lời của chúng tôi cho câu hỏi đặt ra ở đầu chương này là “Không”: Việc Peru nghèo hơn Tây Âu và Hoa Kỳ không phải là một tất yếu lịch sử.

Ngay từ đầu, trái với các giả thuyết về văn hóa và địa lý, Peru không buộc phải mang thân phận đói nghèo do các yếu tố văn hóa và địa lý của đất nước. Theo lý thuyết của chúng tôi, Peru nghèo hơn nhiều so với Tây Âu và Hoa Kỳ ngày nay là do các thể chế của họ, và để hiểu lý do, chúng ta cần tìm hiểu lịch sử quá trình phát triển thể chế ở Peru. Như đã trình bày trong chương 2, cách đây 500 năm, Đế chế Inca, tức Peru ngày nay, thịnh vượng hơn, có công nghệ phát triển tinh xảo hơn và sự tập trung chính trị cao hơn so với các xã hội khác nhỏ hơn ở Bắc Mỹ. Bước ngoặt nằm ở sự khác biệt về phương thức thuộc địa hóa vùng này và sự tương phản với phương thức thuộc địa hóa Bắc Mỹ. Đây không phải là kết quả của một quá trình do lịch sử định sẵn, mà là kết quả ngẫu nhiên của những diễn biến phát triển thể chế cốt yếu vào những thời điểm quyết định. Có ít nhất ba yếu tố biết đâu đã có thể làm thay đổi quỹ đạo này và dẫn đến những mô thức rất khác biệt về sau.

Yếu tố đầu tiên là những khác biệt về thể chế tại châu Mỹ vào thế kỷ 15 đã giúp định hình cách thức thuộc địa hóa ở các khu vực thuộc châu lục này. Bắc Mỹ đi theo một con đường thể chế khác với Peru, bởi vì trước khi xảy ra quá trình thuộc địa hóa, dân cư Bắc Mỹ vốn rất thưa thớt và đã thu hút được nhiều người định cư từ châu Âu; những người này sau đó đã thành công khi vùng lên chống lại giới quyền thế mà các chính thể như Hoàng gia Anh và Công ty Virginia từng cố gắng thiết lập. Ngược lại, những kẻ chinh phục từ Tây Ban Nha đã tìm thấy ở Peru một nhà nước tập quyền mang tính chiếm đoạt mà họ có thể tiếp quản, và một lực lượng lao động dồi dào để làm việc trong các hầm mỏ và đồn điền. Mặt khác, cũng không có sự tiền định nào về mặt địa lý về vị thế các nước ở châu Mỹ vào thời điểm người châu Âu đặt chân đến nơi này. Cũng hệt như sự xuất hiện một nhà nước tập quyền dưới sự lãnh đạo của Vua Shyaam trong bộ tộc Bushong là kết quả của sự đổi mới thể chế to lớn hay thậm chí là một cuộc cách mạng chính trị (như ta đã thấy trong chương 5), nền văn minh Inca ở Peru và dân số rất đông ở đây cũng hình thành từ những đổi mới to lớn về thể chế. Thay vì thế, sự đổi mới thể chế này biết đâu đã có thể xảy ra ở Bắc Mỹ tại những vùng như Thung lũng Mississippi hay thậm chí miền đông bắc Hoa Kỳ. Và nếu vậy, biết đâu những người di cư từ châu Âu đã có thể tìm thấy những vùng đất hoang vắng ở dãy núi Andes và các nhà nước tập quyền ở Bắc Mỹ, và vai trò của Peru và Hoa Kỳ biết đâu đã có thể đảo ngược cho nhau. Khi đó, người châu Âu có thể đến sinh sống ở những vùng xung quanh Peru, và mâu thuẫn giữa số đông người di cư và thiểu số quý tộc có thể tạo ra những thể chế dung hợp tại đây thay vì tại Bắc Mỹ. Như thế, biết đâu con đường phát triển kinh tế sau đó đã có thể khác đi.

Thứ hai, đế chế Inca lẽ ra đã có thể chống lại thực dân châu Âu giống như Nhật Bản đã làm khi những con tàu của Commodore Perry đến Vịnh Edo. Mặc dù tính chiếm đoạt của Đế chế Inca mạnh hơn so với gia tộc Tokugawa ở Nhật Bản, và điều này chắc chắn đã làm cho một cuộc cách mạng chính trị giống như Minh Trị Duy Tân ít có khả năng xảy ra ở Peru hơn, nhưng việc người Inca bị chế ngự hoàn toàn dưới sự thống trị của châu Âu không phải là một tất yếu lịch sử. Giá như họ có thể phản kháng và thậm chí hiện đại hóa thể chế của mình để chống trả các mối đe dọa, thì biết đâu toàn bộ lịch sử của Tân Thế giới và cùng với nó là toàn bộ lịch sử nhân loại, có thể đã khác đi.

Yếu tố thứ ba, và cũng là yếu tố triệt để nhất, là không có sự tiền định nào về lịch sử, địa lý hay văn hóa, cho rằng chỉ có người châu Âu mới có thể đi xâm chiếm thế giới. Người Trung Quốc hay thậm chí người Inca cũng hoàn toàn có thể làm được điều đó. Tất nhiên, giả thuyết đó không thể xảy ra khi ta nhìn lại thế giới trong bối cảnh thế kỷ 15: Tây Âu đã vượt lên trước châu Mỹ trong khi Trung Quốc lại trở nên hướng nội. Tuy nhiên, bản thân châu Âu của thế kỷ 15 là kết quả của một quá trình trôi giạt thể chế ngẫu nhiên được đánh dấu bởi nhiều thời điểm quyết định, và không có điều gì trong quá trình đó là tất yếu. Các cường quốc Tây Âu không chắc có thể vươn lên dẫn đầu và chinh phục thế giới nếu không nhờ những bước ngoặt lịch sử quan trọng. Các bước ngoặt này bao gồm lộ trình cụ thể mà chủ nghĩa phong kiến đã đi qua, và trong quá trình đó đã thủ tiêu chế độ nô lệ và làm suy yếu quyền lực của nhà vua; sự phát triển của những thành phố độc lập và tự chủ về tài chính vào những thế kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ nhất tại châu Âu; việc các hoàng đế châu Âu không bị đe dọa bởi hoạt động giao thương hải ngoại và vì thế họ không chủ trương bế quan tỏa cảng như triều đại nhà Minh ở Trung Quốc; và nạn dịch hạch làm lung lay nền móng của trật tự xã hội phong kiến. Nếu những sự kiện trên xảy ra một cách khác hơn, thì chắc có lẽ ngày nay chúng ta sẽ sống trong một thế giới khác, trong đó Peru biết đâu còn lớn mạnh hơn cả Tây Âu và Hoa Kỳ.

LẼ TỰ NHIÊN, một giả thuyết mà trong đó những khác biệt nhỏ nhặt và tính ngẫu nhiên đều đóng vai trò quan trọng thì chỉ có khả năng dự đoán hạn chế. Vào thế kỷ 15 hay ngay cả thế kỷ 16, ấy là còn chưa nói đến nhiều thế kỷ sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ, gần như không ai có thể dự đoán rằng sự đột phá to lớn hướng tới các thể chế dung hợp lại diễn ra ở Anh. Chỉ có quá trình trôi giạt thể chế cụ thể và bản chất của thời điểm quyết định hình thành từ sự mở mang thương mại Đại Tây Dương mới làm cho điều này có thể xảy ra. Ngay giữa thời kỳ Cách mạng Văn hóa những năm 1970 ở Trung Quốc, hẳn không ai tin rằng chẳng bao lâu sau Trung Quốc sẽ bước vào một con đường thay đổi triệt để về thể chế kinh tế và tiếp đến là một quỹ đạo tăng trưởng chớp nhoáng. Tương tự, chúng ta cũng không thể dự đoán một cách chắc chắn vị thế của các nước rồi sẽ ra sao sau 500 năm. Tuy nhiên, đây không phải là nhược điểm trong lý thuyết của chúng tôi. Những dẫn chứng lịch sử chúng tôi vừa trình bày cho đến giờ cho thấy rằng bất cứ giả thuyết nào dựa trên sự tiền định về lịch sử - dựa vào địa lý, văn hóa hay ngay cả các yếu tố lịch sử - đều bất cập. Những khác biệt nhỏ và tính ngẫu nhiên không chỉ là một phần trong lý thuyết của chúng tôi, mà còn là một phần bản chất của lịch sử.

Ngay cả khi không dễ gì dự đoán chính xác xã hội nào sẽ trở nên thịnh vượng hơn so với những xã hội khác, xuyên suốt quyển sách này, ta đã thấy giả thuyết của chúng tôi giải thích tương đối rõ ràng những khác biệt lớn về sự thịnh vượng và đói nghèo ở các quốc gia trên thế giới. Trong phần còn lại của chương này, chúng ta sẽ thấy lý thuyết này có khả năng đem lại những nguyên tắc giúp xác định xã hội nào sẽ có nhiều khả năng đạt được tăng trưởng kinh tế hơn trong vài thập niên tới.

Đầu tiên, các vòng xoáy đi lên và vòng xoáy đi xuống đồng nghĩa với sự kéo dài và tồn tại dai dẳng của thể chế. Không có gì phải nghi ngờ về việc trong vòng 50 hay 100 năm nữa, Hoa Kỳ và Tây Âu, với các thể chế chính trị và kinh tế dung hợp, sẽ giàu có hơn rất nhiều so với vùng hạ Sahara châu Phi, Trung Đông, Trung Mỹ hay Đông Nam Á. Tuy vậy, trong phạm vi diễn biến chung này vẫn sẽ có những thay đổi lớn về thể chế trong thế kỷ tới, với một vài quốc gia sẽ phá vỡ khuôn mẫu và chuyển từ nghèo nàn sang giàu có.

Những quốc gia không có sự tập trung chính trị như Somalia và Afghanistan, hay những quốc gia đang trải qua tình trạng sụp đổ nhà nước - như Haiti mấy thập niên vừa qua, vốn dĩ nhà nước đã sụp đổ từ lâu trước khi trận động đất lớn năm 2010 tàn phá cơ sở hạ tầng của quốc gia này - không chắc có thể đạt được tăng trưởng trong các thể chế chính trị chiếm đoạt, và cũng không thể thực hiện được những thay đổi to lớn hướng tới các thể chế dung hợp. Ngược lại, những quốc gia có khả năng phát triển trong vài thập niên tới (mặc dù họ có thể đang có các thể chế chiếm đoạt), là những nơi có sự tập trung chính trị ở một mức độ nhất định. Ở vùng hạ Sahara châu Phi, những nước này bao gồm Burundi, Ethiopia, Rwanda, vốn dĩ là những nước có lịch sử nhà nước tập quyền lâu đời, và Tanzania, đất nước vừa xoay sở để đạt được sự tập trung chính trị. Ở châu Mỹ La-tinh, những nước này bao gồm Brazil, Chilê và Mexico, vốn dĩ là những nước không chỉ đạt được sự tập trung chính trị mà còn có những bước tiến mạnh mẽ hướng tới một chủ nghĩa đa nguyên non trẻ. Theo lý thuyết của chúng tôi thì Colombia không chắc sẽ duy trì được tăng trưởng kinh tế bền vững.

Lý thuyết của chúng tôi cũng cho thấy rằng sự tăng trưởng trong các thể chế chính trị chiếm đoạt như ở Trung Quốc không phải là sự tăng trưởng bền vững, và nhiều khả năng sẽ trở nên kiệt sức. Ngoài những trường hợp này, các quốc gia có những yếu tố không chắc chắn khó dự đoán. Chẳng hạn như Cuba có thể chuyển sang các thể chế dung hợp và trải qua sự chuyển đổi kinh tế rất ngoạn mục, nhưng cũng có thể sẽ tiếp tục duy trì các thể chế kinh tế và chính trị chiếm đoạt. Điều này cũng đúng với Bắc Triều Tiên và Myanmar ở châu Á. Vì thế, mặc dù lý thuyết của chúng tôi mang lại những công cụ cần thiết để suy xét sự thay đổi thể chế và các hệ quả tương ứng, nhưng bản chất của sự thay đổi này - tức vai trò của những khác biệt nhỏ và tính ngẫu nhiên - chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc đưa ra những phán đoán chính xác.

Việc rút ra các kiến nghị chính sách dựa vào cách giải thích tổng quát về nguồn gốc của thịnh vượng và nghèo đói như thế này thậm chí còn đòi hỏi chúng ta phải thận trọng hơn. Tác động của những thời điểm quyết định phụ thuộc vào các thể chế hiện có; và cũng tương tự như vậy, phản ứng của xã hội đối với cùng một sự can thiệp chính sách cũng phụ thuộc vào các thể chế đang tồn tại. Đương nhiên, lý thuyết của chúng tôi tập trung vào biện pháp cần thiết để một quốc gia có thể đạt được sự thịnh vượng: chuyển đổi từ các thể chế chiếm đoạt sang các thể chế dung hợp. Tuy nhiên, ta cũng thấy rõ ràng ngay từ đầu là không có một công thức dễ dàng cho sự chuyển đổi ấy. Trước hết, hiện tượng “vòng xoáy đi xuống” ngụ ý rằng thay đổi thể chế là một việc hết sức khó khăn. Nói cụ thể hơn, các thể chế chiếm đoạt có thể tái sinh dưới nhiều chiêu bài khác nhau, như chúng ta đã thấy với quy luật sắt của thể chế chính trị đầu sỏ trong chương 12. Việc lật đổ thể chế chiếm đoạt của tổng thống Mubarak vào tháng 2/2011 không giúp đảm bảo rằng Ai Cập sẽ bước vào con đường tiến tới các thể chế dung hợp. Thay vì thế, các thể chế chiếm đoạt biết đâu cũng có thể tái sinh bất chấp những phong trào dân chủ mạnh mẽ và tràn trề hy vọng. Kế đến, tính ngẫu nhiên hay sự tình cờ của lịch sử khiến ta không thể biết được liệu sự tương tác cụ thể giữa những khác biệt thể chế hiện có với những thời điểm quyết định sẽ dẫn đến những thể chế chiếm đoạt hơn hay dung hợp hơn, vì thế sẽ là mạo muội khi đưa ra những kiến nghị chính sách tổng quát để khuyến khích thay đổi hướng tới các thể chế dung hợp. Tuy vậy, lý thuyết của chúng tôi vẫn hữu ích trong việc phân tích chính sách, vì nó giúp nhận ra những quyết định chính sách sai lầm bắt nguồn từ các giả thuyết sai lạc hoặc từ nhận thức bất cập về cách thức diễn ra sự thay đổi thể chế. Trong vấn đề này, cũng như trong hầu hết mọi vấn đề, việc tránh phạm phải những sai lầm nghiêm trọng nhất cũng không kém phần quan trọng, thậm chí còn thực tế hơn, so với nỗ lực tìm ra giải pháp đơn giản. Có lẽ điều này sẽ thể hiện rõ ràng nhất khi ta xem xét những kiến nghị chính sách hiện tại khuyến khích sự “tăng trưởng độc đoán” dựa vào kinh nghiệm tăng trưởng thành công của Trung Quốc trong vài thập niên trở lại đây. Chúng tôi cũng sẽ giải thích tại sao các kiến nghị chính sách này đang gây lầm đường lạc lối và tại sao sự tăng trưởng của Trung Quốc chỉ là một hình thức khác của sự tăng trưởng trong các thể chế chính trị chiếm đoạt vốn không thể chuyển hóa thành sự phát triển kinh tế bền vững.

Nguồn: Daron Acemoğlu, James A. Robinson (2012). Vì Sao Các Quốc Gia Thất Bại. Trần Thị Kim Chi dịch, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. NXB Trẻ. Nguyên tác: Why Nations Fail (2012)

Dịch giả:
Trần Thị Kim Chi
Hiệu đính:
Vũ Thành Tự Anh