![[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 3: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (Phần 3)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25004.1_(1).png)
[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 3: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (Phần 3)
IV.
Vì thế, việc hiểu đúng các nguyên do khiến cho nhiều người trong giới trí thức có xu hướng ngả theo chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng. Ở đây, điểm đầu tiên mà những người không chấp nhận khuynh hướng tư tưởng này phải thẳng thắn đối mặt là: chẳng phải các lợi ích bản thân cũng chẳng phải các ý định xấu xa, mà chủ yếu là các xác tín trung thực và các ý định tốt đẹp mới là những cái quyết định quan điểm của giới trí thức. Quả thực, cần phải công nhận rằng, xét về tổng thể, người trí thức điển hình ngày nay càng dễ trở thành một người xã hội chủ nghĩa nếu anh ta càng được dẫn dắt bởi thiện ý và trí tuệ, và rằng trên bình diện lí lẽ trí tuệ thuần túy anh ta nói chung sẽ có khả năng chứng tỏ mình giỏi hơn đa số các đối thủ trong tầng lớp của mình. Nếu vẫn nghĩ rằng anh ta sai thì chúng ta phải thừa nhận rằng đó có lẽ phải là sự sai lầm chân thực (genuine error) khiến cho những người có ý tốt và thông minh, nắm giữ các địa vị then chốt trong xã hội của chúng ta lại đi truyền bá các quan điểm mà đối với chúng ta là một mối đe dọa đối với nền văn minh của nhân loại1. Để có thể chống lại loại sai lầm này thì không gì quan trọng hơn là phải cố gắng hiểu được cội nguồn của nó. Ấy thế nhưng những người thường được coi là các đại diện của trật tự hiện hành và những người tin rằng họ hiểu được các mối nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội lại thường còn rất xa mới nắm bắt được điều này. Họ có khuynh hướng coi giới trí thức xã hội chủ nghĩa chẳng gì khác hơn là những kẻ mọt sách cấp tiến thay vì đánh giá cao ảnh hưởng của họ và, bằng toàn bộ thái độ của mình đối với họ, lại có khuynh hướng đẩy họ lún sâu hơn vào việc chống đối trật tự hiện hành.
Nếu muốn hiểu được khuynh hướng tư tưởng lạ kì này của một phần lớn giới trí thức, chúng ta phải làm rõ hai điểm. Thứ nhất, thông thường họ xét đoán tất cả những vấn đề cụ thể chỉ dưới ánh sáng của các tư tưởng chung nào đó; thứ hai, những sai lầm đặc trưng của bất cứ thời đại nào thường xuất phát từ một số chân lí mới đích thực được khám phá ra ở thời đại ấy, và chúng là kết quả của việc áp dụng sai lầm những khái quát hóa mới vốn được chứng tỏ là có giá trị trong các lĩnh vực khác. Kết luận của chúng ta sau khi cân nhắc đầy đủ các thực tế này là: việc bác bỏ thuyết phục những sai lầm như vậy sẽ thường đòi hỏi sự tiến bộ trí tuệ hơn nữa, và thường là sự tiến bộ về các khía cạnh rất trừu tượng, có vẻ rất xa rời các vấn đề thực tiễn.
Có lẽ nét đặc trưng nhất của người trí thức là: anh ta phán xử các tư tưởng mới không phải bằng các phẩm tính cụ thể của chúng mà bằng sự sẵn sàng ăn khớp của chúng với những quan niệm chung của anh ta, với bức tranh về thế giới mà anh ta cho là hiện đại hay tiên tiến. Thông qua ảnh hưởng của chúng đối với anh ta và đối với sự lựa chọn ý kiến của anh ta về những vấn đề cụ thể, quyền lực của các tư tưởng đối với cái thiện và cái ác tăng lên tỉ lệ thuận với tính tổng quát, tính trừu tượng, và thậm chí tính mơ hồ của chúng. Khi biết ít về các vấn đề cụ thể, tiêu chuẩn của anh ta phải nhất quán với các quan điểm khác của anh ta và phải phù hợp để gắn kết được vào một bức tranh mạch lạc về thế giới. Thế nên, việc lựa chọn này từ vô số tư tưởng mới phô bày ra ở mọi thời điểm tạo ra bầu không khí đặc trưng về quan điểm, cái Weltanschauung (thế giới quan) thống lĩnh của một thời kì, cái sẽ thuận lợi cho sự chấp nhận một số quan điểm và không thuận lợi cho các ý kiến khác, và cái sẽ làm cho người trí thức sẵn sàng chấp nhận một kết luận và bác bỏ kết luận khác mà không cần phải có hiểu biết thật sự về các vấn đề.
Trong một số khía cạnh người trí thức thực ra gần với triết gia hơn là với bất cứ nhà chuyên môn nào, và theo một nghĩa sâu xa hơn, triết gia là một loại ông hoàng trong giới trí thức. Tuy ảnh hưởng của anh ta là xa vời với công việc thực tiễn và vì thế chậm hơn và khó lần ra dấu vết hơn ảnh hưởng của người trí thức bình thường, nó cùng loại và về dài hạn thậm chí có tác động mạnh hơn ảnh hưởng của người trí thức bình thường. Cả hai người đều có cùng nhiệt huyết hướng tới một sự tổng hợp, nhưng với triết gia thì theo đuổi một cách có phương pháp hơn, cùng sự đánh giá về những quan điểm си thể ở mức độ mà chúng khớp với một hệ thống tư duy chung thay vì bằng các phẩm tính cụ thể của chúng, và cùng là sự cố gắng vì một thế giới nhất quán, và đấy chính là những thứ tạo thành căn cứ nền tảng để chấp nhận hay bác bỏ các tư tưởng. Vì lí do này, triết gia có lẽ có một ảnh hưởng mạnh hơn đối với giới trí thức so với bất cứ học giả hay nhà khoa học nào khác và, hơn bất cứ ai khác, là người xác định đường hướng để giới trí thức thực hiện chức năng sàng lọc của mình. Ảnh hưởng đại chúng của chuyên gia khoa học chỉ bắt đầu kình địch với ảnh hưởng của triết gia khi anh ta không còn là nhà chuyên môn nữa và bắt đầu triết lí về sự tiến bộ của lĩnh vực của mình - và thường chỉ sau khi anh ta được giới trí thức đẩy lên vì các lí do chẳng liên quan mấy đến thành tựu khoa học nổi tiếng của anh ta.
Vì thế, “bầu không khí dư luận” của bất cứ thời kì nào về cơ bản là một tập các định kiến chung theo đó giới trí thức phán xử tầm quan trọng của các hiện tượng và ý kiến mới. Các định kiến này chủ yếu là những ứng dụng mà theo anh ta thì có vẻ là các khía cạnh quan trọng nhất của các thành tựu khoa học, một sự chuyển giao sang những lĩnh vực khác cái đặc biệt gây ấn tượng với anh ta khi quan sát công việc của các nhà chuyên môn. Ta có thể đưa ra một danh mục dài về các mốt và khẩu hiệu trí tuệ, mà trong diễn tiến của hai hay ba thế hệ đã lần lượt chế ngự tư duy của giới trí thức. Dù đó là “cách tiếp cận lịch sử” hay lí thuyết tiến hóa, quyết định luận thế kỉ XIX và niềm tin vào ảnh hưởng vượt trội của môi trường so với yếu tố di truyền, lí thuyết tương đối hay lòng tin vào sức mạnh của vô thức - một trong những khái niệm chung này đã được biến thành hòn đá tảng để thử nghiệm các phát kiến mới trong những linh vực khác. Dường như là các tư tưởng này càng ít cụ thể hay chính xác (hay được hiểu càng kém thấu đáo), thì ảnh hưởng của chúng có lẽ lại càng rộng. Vì thế đôi khi chính cái không hơn một ấn tượng mơ hồ, hiếm khi được biểu đạt bằng ngôn từ, lại là cái tạo ra được ảnh hưởng sâu sắc. Người ta thường có những niềm tin kiểu như sự kiểm soát có chủ ý hay sự tổ chức có ý thức đối với cả các quá trình xã hội thì luôn cho kết quả ưu việt hơn các quá trình tự phát không được điều khiển bởi tr tuệ của một cá nhân, hay kiểu như bất cứ trật tự nào dựa trên một kế hoạch được đưa ra trước đó hắn phải tốt hơn trật tự do sự cân bằng của các lực lượng đối nhau tạo ra; và chính những kiểu niềm tin này đã tác động sâu sắc đến diễn tiến chính trị.
Người ta chỉ thấy vai trò của giới trí thức có vẻ khác hẳn khi quan tâm tới sự phát triển của các lí tưởng xã hội đúng đắn hơn. Ở đây các thiên hướng đặc thù của họ được bộc lộ dưới dạng các khẩu hiệu của các quá trình trừu tượng hóa, dưới dạng hợp lí hóa đến mức cực đoan những hoài bão nhất định nào đó nảy sinh từ sự giao tiếp bình thường của con người. Vì dân chủ là một điều tốt nên khi nguyên lí dân chủ càng có thể đẩy xa hơn được thì đối với họ càng có vẻ đưa đến kết cục tốt hơn. Lí tưởng mạnh nhất trong các tư tưởng chung này, những cái đã định hình sự phát triển chính trị trong thời gian mới đây, tất nhiên là lí tưởng về bình đẳng vật chất. Lí tưởng này, về cốt lõi, không phải là một trong những xác tín đạo đức phát triển một cách tự phát, được áp dụng trước tiên trong quan hệ giữa các cá nhân cụ thể, mà là một kiến tạo trí tuệ được thai nghén dưới dạng trừu tượng, còn trong các trường hợp cụ thể thì ý nghĩa cũng như khả năng ứng dụng của nó khá mù mờ. Tuy nhiên, nó đã thể hiện mạnh mẽ như là một nguyên lí chọn lọc giữa các phương án chính sách xã hội khác nhau, tạo áp lực dai dẳng lên quá trình tổ chức những công việc xã hội mà chẳng ai hình dung ra được một cách rõ ràng. Một biện pháp cụ thể có khuynh hướng dẫn đến sự bình đẳng lớn hơn thì càng được xem như là một kiến nghị có trọng lượng, và người ta chẳng buồn đếm xỉa gì đến biện pháp nào khác. Do đối với mỗi vấn đề cụ thể, đây chính là khía cạnh mà những người định hướng dư luận có một xác tín rõ ràng nên lí tưởng bình đẳng đã quyết định sự thay đổi xã hội thậm chí còn mạnh hơn mức độ mà những người chủ trương nó dự định.
Tuy nhiên, các lí tưởng đạo đức không chỉ vận động theo cách này. Đôi khi thái độ của giới trí thức đối với các vấn đề về trật tự xã hội có thể là hệ quả của những tiến bộ về tri thức khoa học thuần túy; và trong những trường hợp này, các quan điểm sai lầm của họ về những vấn đề си the trong một thời gian dường như chứa đựng tất cả uy tín của các thành tựu khoa học mới nhất đứng đằng sau chúng. Chúng ta không nên ngạc nhiên khi một tiến bộ đích thực về tri thức tự bản thân nó thỉnh thoảng lại trở thành nguồn gốc của một sai lầm mới theo cách thức này. Nếu không có kết luận sai nào tiếp sau các khái quát hóa mới thì chúng sẽ là những chân lí cuối cùng và chẳng bao giờ cần hiệu chỉnh. Mặc dù, theo lệ thường, một khái quát hóa mới như vậy sẽ chỉ chứa đựng các hệ quả sai lấy ra từ khái quát hóa đó cộng với những quan điểm đã được chấp nhận trước đây, và như thế sẽ không dẫn tới sai lầm mới, nhưng rất có khả năng là một lí thuyết mới, chỉ vì giá trị của nó được chứng tỏ bởi những kết luận mới hợp lệ có được từ nó, sẽ tạo ra các kết luận mới khác mà sẽ bị chứng tỏ là sai lầm bởi sự tiến bộ tiếp theo. Song trong trường hợp như vậy một niềm tin sai lạc sẽ xuất hiện dựa trên tất cả uy tín của tri thức khoa học mới nhất ủng hộ nó. Mặc dù trong một lĩnh vực khoa học cụ thể niềm tin này khi đưa vào đều bị mọi bằng chứng khoa học chống lại, nhưng trước tòa án của giới trí thức và dưới ánh sáng của các tư tưởng chi phối tư duy của họ thì nó vẫn được lựa chọn như là quan điểm phù hợp nhất với tinh thần thời đại. Vì thế, các nhà chuyên môn có được danh tiếng trong công chúng và có ảnh hưởng rộng rãi thường không phải là những người được các đồng nghiệp trong giới của họ công nhận; họ thường là những người bị các nhà chuyên môn khác coi là chơi nổi (crank), nghiệp dư, thậm chí là lừa bịp, nhưng dưới con mắt của công chúng nói chung thì họ lại trở thành những nhân vật nổi tiếng nhất trong lĩnh vực của họ.
Cụ thể, hầu như không còn nghi ngờ gì nữa rằng cách thức mà con người đã học được để tổ chức các lực lượng tự nhiên trong vòng một trăm năm qua đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra một thứ niềm tin rằng một sự kiểm soát tương tự các lực lượng xã hội sẽ mang lại những tiến bộ tương đương trong điều kiện [xã hội] loài người. Người ta đi đến kết luận rằng, với việc áp dụng những biện pháp kĩ nghệ (engineering echniques), việc điều khiển tất cả các hình thức hoạt động của con người trong xã hội theo một kế hoạch thống nhất sẽ mang lại thành công như nó đã thành công trong vô vàn nhiệm vụ kĩ thuật; và có vẻ như là kết luận này không phải là không hấp dẫn để quyến rũ được hầu hết những người phấn chấn bởi thành tựu của lĩnh vực khoa học tự nhiên. Có hai điểm quả thực phải thừa nhận là, [thứ nhất], để bẻ lại cái giả định chắc chắn dẫn đến việc ủng hộ một kết luận như vậy thì sẽ cần phải có những lí lẽ mạnh mẽ và [thứ hai), các lí lẽ này vẫn chưa được đưa ra một cách thỏa đáng. Việc chỉ ra những khuyết điểm của các đề xuất cụ thể dựa trên loại lập luận này là không đủ. Cái lí lẽ đó sẽ không mất đi sức mạnh của nó cho tới khi chúng ta có thể chỉ ra một cách thuyết phục vì sao cái đã tỏ ra thành công vang dội đến vậy trong việc đem lại những tiến bộ trong vô vàn lĩnh vực lại vẫn có những giới hạn đối với tính hữu ích của nó và sẽ trở nên cực kì nguy hại nếu được mở rộng quá các giới hạn này. Đây là một nhiệm vụ vẫn chưa được giải đáp tới nơi tới chốn và nó cần phải được hoàn thành trước khi nghĩ tới việc có thể loại bỏ được động lực hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Tất nhiên, đây chỉ là một trong nhiều trường hợp cần thêm tiến bộ trí tuệ để bác bỏ các tư tưởng có hại trong trào lưu hiện thời, và công cuộc mà chúng ta sẽ tiến tới, xét đến cùng, sẽ được quyết định bởi việc thảo luận về những vấn đề rất trừu tượng. Một người làm công việc thực tiễn dựa trên những hiểu biết sâu sắc của anh ta về một lĩnh vực cụ thể có thể giữ vững được niềm tin rằng các lí thuyết về chủ nghĩa xã hội mà được suy ra từ những tư tưởng tông quát hơn sẽ không thể hoạt động được trong thực tiễn; nhưng điều đó là chưa đủ. Anh ta có thể hoàn toàn đúng, thế nhưng sự chống đối của anh ta sẽ bị lấn át và tất cả những hậu quả đáng tiếc mà anh ta phỏng đoán từ trước sẽ vẫn diễn ra trừ phi anh ta nhận được sự ủng hộ từ một bác bỏ thuyết phục đối với idées mères (các tư tưởng thuần túy ủng hộ chủ nghĩa xã hội]). Chừng nào mà giới trí thức chưa được trang bị loại lí lẽ chung tốt hơn, chừng đó những phản bác, cho dù cực kì hợp lí đi chăng nữa, đối với một vấn đề nhất định nào đó vẫn sẽ bị gạt sang một bên.
Chú thích:
(1) Chính vì thế (như đã được Giáo sư J. Schumpeter gợi ý trong phê bình của ông về cuốn Đường về nô lệ), không phải vì tôi có “sự tôn trọng đối với việc mắc sai lầm” mà là vì tôi tin tưởng sâu sắc về tầm quan trọng của điều này, nên tôi, theo lời Giáo sư J. Schumpeter, “hầu như không bao giờ gán cho các đối thủ bất cứ sai lầm gì ngoài phạm vi trí tuệ/học thuật”.
Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch.