Tổng quan về Hiến pháp Hoa Kỳ (Phần 1)

Tổng quan về Hiến pháp Hoa Kỳ (Phần 1)

I. Giới thiệu

Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn thảo bởi học giả-chính trị gia James Madison[1] vào năm 1787. Bản Hiến pháp này gồm bảy Điều và 27 Tu chính án, là một văn kiện sống còn, tồn tại song song với lịch sử của nước Mỹ và được áp dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày. Hiến pháp Hoa Kỳ đã được nghiên cứu, trích dẫn, và được sử dụng như một mô hình cho các Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Đây là một văn kiện được xây dựng từ bốn lĩnh vực chủ chốt của nước Mỹ: pháp luật, lịch sử, chính phủ, và văn hóa:

Tài liệu luật học: Hiến pháp là pháp luật tối cao của đất nước[2] và được hình thành như một quy định cho xã hội: quy định đó bắt buộc các cá nhân và chính phủ phải tuân theo quyền lực tối cao nhất của pháp luật.

Tài liệu lịch sử: Hiến pháp chính là tác phẩm nghiên cứu học thuật của những người sáng lập nên nước Mỹ, đại diện cho các tiểu bang, và, do đó, đã tồn tại hơn 200 năm trong lịch sử Hoa Kỳ[3];

Tài liệu chính trị và triết học: Hiến pháp thiết lập cấu trúc cơ bản của chính phủ Mỹ và đưa ra triết lý chính trị: chính phủ Mỹ được xây dựng trên mô hình cộng hòa, đại diện cho nhân dân theo phương thức “liên bang,” dựa trên nguyên tắc “phân quyền” để kiểm soát và quân bằng hóa ba cơ chế tạo nên nhà cầm quyền nước Mỹ. Chính phủ Mỹ kết hợp (a) “thể chế liên bang” (nghĩa là, phân chia theo chiều dọc quyền lực của chính phủ quốc gia và chủ quyền nhà nước của các tiểu bang)[4], với (b) “thể chế phân quyền” (tức là, phân chia theo chiều ngang quyền lực giữa ba ngành của chính phủ: lập pháp, hành pháp và tư pháp).

Tài liệu văn hóa và xã hội: Hiến pháp thể hiện nét đặc trưng cho văn hóa Mỹ, một xã hội mà người dân tự quyết định cho chính mình.

Theo những người sáng lập nước Mỹ, thì Hiến pháp tiêu biểu cho tiếng nói của người dân nhằm hạn chế quyền lực của chính phủ và khẳng định quyền tự do cá nhân cho dân (đây là ý chính của 10 Tu chính án đầu tiên thêm vào Hiến pháp, được gọi là “Tuyên ngôn Nhân quyền”, cũng là tác phẩm của Madison). Những lời vào đề Hiến pháp được người Mỹ luôn ghi nhớ: “Chúng tôi, nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, nỗ lực đoàn kết bên nhau để tạo nên một Liên bang thống nhất, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước và sự phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong liên bang, giữ vững nền tự do cho bản thân và các thế hệ mai sau, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.”

Vì vậy, để hiểu Hiến pháp Mỹ, người ta phải hiểu khái niệm: (i) phân quyền lực (mối quan hệ giữa ba nhánh của chính phủ), (ii) chủ thuyết liên bang (mối quan hệ giữa chính phủ quốc gia trung ương và chính phủ các tiểu bang), (iii) cơ chế toà án bảo hiến ( cơ chế mà qua đó Hiến pháp được hiểu, áp dụng và tôn trọng), và (iv) Bản Tuyên ngôn Quyền (nói lên mối quan hệ giữa chính phủ và cá nhân).

II. Tóm tắt bảy Điều và 27 Tu chính án

Tóm tắt các điều khoản của Hiến pháp:

– Điều I thiết lập nhánh lập pháp liên bang.

– Điều II thiết lập nhánh hành pháp liên bang.

– Điều III thiết lập nhánh tư pháp liên bang.

– Điều IV gồm “Khoản tin tưởng và tôn trọng tuyệt đối,” bắt buộc các tiểu bang phải tin tưởng và áp dụng tuyệt đối các điều luật, hồ sơ và thủ tục tố tụng lẫn nhau. Điều IV cũng quy định “Khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ,” có nghĩa là công dân của mỗi tiểu bang sẽ được hưởng mọi đặc quyền phúc lợi và các đặc quyền có tác dụng miễn trừ trước pháp luật y hệt như công dân của các tiểu bang khác.[5] Điều IV áp dụng vào việc bảo đảm không có sự phân biệt kỳ thị trong cách các tiểu bang đối xử với các công dân, từ tiểu bang này đến tiểu bang khác.[6]

– Điều V đặt nền móng cho việc sửa đổi Hiến pháp.

– Điều VI tạo nên quy chế tối cao cho Hiến pháp (cũng như các hiệp ước quốc tế và các đạo luật liên bang, được ký kết hoặc ban hành theo như Hiến pháp đã quy định).

– Điều VII yêu cầu sự phê chuẩn của chín tiểu bang cho việc thành lập Hiến pháp. (Lúc đó liên bang Hoa Kỳ chỉ có chín tiểu bang.)

Tóm tắt cơ chế sửa đổi Hiến pháp:

Cơ chế đưa ra tu chính án được nêu trong Điều V, với mục đích duy trì để cho Hiến pháp được tồn tại lâu dài. Mỗi Tu chính án của Hiến pháp phải được đề xuất rồi thông qua bởi hai phần ba thành viên của cả hai viện, Thượng viện và Hạ viện, hoặc bởi hai phần ba các tiểu bang, và sau đó phải được phê chuẩn bởi ba phần tư các tiểu bang. Như vậy quá trình Tu chính án gồm hai bước:

• Bước thứ nhất: các tu chính án được đề xuất từ hai phần ba nghị sĩ trong cả hai viện của Quốc hội, hoặc bằng hội nghị đặc biệt của các cơ quan lập pháp của hai phần ba các tiểu bang.

• Bước thứ hai: các tu chính án phải được phê chuẩn bởi các cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang, hoặc thể hiện trong hội nghị của các bang đó.[7] Hiến pháp không quy định cho Tổng thống có vai trò gì cả trong quá trình đưa ra tu chính án.

Tóm tắt các tu chính án: 27 tu chính án dưới đây, không chỉ phản ánh sự cải tiến trong các quy định của Hiến pháp, mà còn thể hiện tíến trình lịch sử của nước Mỹ. Ví dụ, một số tu chính án được đưa ra sau cuộc Nội chiến Mỹ về vấn đề nô lệ tại các bang miền nam.

Tu chính án thứ nhất đảm bảo tự do cá nhân về vấn đề tôn giáo, ngôn luận, báo chí, hội họp trong hòa bình, và quyền được tự do “kiến nghị lên chính phủ để khắc phục những bất bình của dân.” Các quyền tự do của Tu chính án thứ nhất được bảo đảm, tuy nhiên, không phải là tuyệt đối[8]. Tu chính án thứ nhất được tóm tắt như sau:

(i) điều khoản “Tự do ngôn luận” cho cá nhân và báo chí, nhằm bảo vệ những phát biểu bằng ngôn ngữ (và cả những phát biểu phi ngôn ngữ, qua hành động thay vì lời nói).

(ii) điều khoản “Thiết lập” (đúng hơn nên gọi là “khoản không thành lập”), để quy định việc thiết lập Hoa Kỳ là một chính phủ thế tục, tách riêng khỏi tôn giáo; và

(iii) điều khoản “Miễn can thiệp” có ý nghĩa ngăn cấm sự can thiệp của chính phủ vào vấn đề tự do tôn giáo. [9]

Tu chính án thứ 2 đảm bảo quyền của dân chúng được phép mang vũ khí, và điều này được coi như tạo nền tảng cho lực lượng dân quân.[10]

Tu chính án thứ 3 đảm bảo quyền của dân chúng không bị bắt buộc phải chứa binh sĩ ở lại trong tư gia khi không có sự đồng ý của gia chủ. Đây là điều Hiến pháp quy định cấm chính phủ không được biến nhà dân thành đồn lính để dân thành quân đội nhằm phục vụ chính phủ mà không cần lệnh động viên, thời chiến hay thời bình cũng vậy.

Tu chính án thứ 4 đảm bảo tài sản và tính mạng của người dân sẽ không bị tịch thu hay bắt bớ, không bị bắt giữ hay tịch thu tài sản mà
không có lệnh của tòa dựa trên lý do chính đáng, khả thi. Những lệnh tòa ấy phải “mô tả chi tiết nơi bị lục lọi tìm kiếm, cùng với cá nhân sẽ bị bắt giữ hay các thứ bị tịch thu.”

Tu chính án thứ 5 đảm bảo quyền của người bị cáo buộc là tội phạm trước pháp luật:

– Việc xét xử một cá nhân bị buộc tội phải được đưa ra trước một bồi thẩm đoàn;

– Người dân được bảo vệ không phải chịu cái gọi là “song án hay song thức nguy cơ” trong quá trình luận tội”, có nghĩa rằng họ không thể bị truy tố cùng một tội đến những hai lần;

– Người dân không bị bắt buộc làm nhân chứng chống lại chính mình, và do đó có thể giữ im lặng trong suốt quá trình tố tụng hình sự (quyền này thường được dân Mỹ mô tả cũng là quyền được dựa trên “Điều thứ năm” để khỏi nói năng gì cả với cảnh sát khi bị bắt bớ).

– Nhà nước không thể tước đi cuộc sống của một người, sự tự do hoặc tài sản của họ mà không theo đúng quy định của pháp luật (Điều
khoản “Tiến trình xét xử”).

Tu chính án thứ 5 cũng có “điều khoản về trưng thu tài sản của dân” cấm chính phủ không được lấy tài sản tư nhânngoài mục đích công
cộng mà không có bồi thường đúng đắn.[11] Điều khoản Hiến pháp về trưng thu được áp dụng mỗi khi chính phủ lấy tài sản của dân, toàn phần hay chỉ một phần, ngắn hạn hay vĩnh viễn, tài sản hữu hình hoặc trừu tượng thì cũng thế, tất cả đều được bảo vệ.[12]

Tu chính án thứ 6 đảm bảo quyền của bị cáo được xét xử công khai, công bằng và nhanh chóng trước một bồi thẩm đoàn công minh, cũng như quyền được biết lý do và tính chất việc truy tố, quyền được đối chấp người tố cáo và đưa ra nhân chứng, và quyền được tư vấn bởi một luật sư có khả năng.

Tu chính án thứ 7 đảm bảo quyền được bồi thẩm đoàn xét xử trong một phiên tòa dân sự.

Tu chính án thứ 8 cấm việc áp dụng một số tiền bảo lãnh quá đắt cho bị cáo được tại ngoại hầu tra, hoặc một số tiền phạt quá lớn vượt mức hợp lý, hoặc hình phạt độc ác bất nhân “bất bình thường, dã man, tàn bạo”. Nói khác đi, hình phạt phải cân xứng với tội danh (đây là Điều khoản cấm “xử phạt dã man và bất thường”).[13]

Tu chính án thứ 9 đảm bảo rằng việc Hiến pháp liệt kê các quyền cá nhân không ảnh hưởng gì đến các quyền sẵn có khác của dân. Do
đó, Hiến pháp được coi như mẹ đẻ của pháp luật, không thể đem ra làm công cụ khống chế người dân, hay công cụ hạn chế các quyền sẵn có của dân (các quyền tạo ra bởi luật tự nhiên hay thông luật có sẵn từ trước).

Tu chính án thứ 10 đảm bảo rằng Hiến pháp không thay thế quyền hạn sẵn có của “các tiểu bang hay người dân”. Vì vậy, Hiến pháp
không cấm các tiểu bang soạn thảo luật của riêng mình, nếu địa hạt ấy không bị Hiến pháp cấm đoán. Như thế, Tu chính án thứ 10 chứng minh cho chủ thuyết liên bang: việc phân chia quyền lực giữa tiểu bang và liên bang, để dành lại cho các tiểu bang toàn thể chủ quyền nhà nước, trong tất cả các địa hạt mà Hiến pháp không ủy quyền cho chính phủ quốc gia.

Tu chính án thứ 11 không cho phép công dân của một tiểu bang khởi kiện một tiểu bang khác bằng cách khởi tố ở tòa án liên bang.[14]

Tu chính án thứ 12 thiết lập các Đoàn cử tri thay mặt dân dồn lá phiếu cho Tổng Thống và Phó Tổng thống.

Tu chính án thứ 13 bãi bỏ chế độ nô lệ (đây là điều khoản Hiến pháp độc nhất được áp dụng cho chính quyền cũng như tư nhân).

Tu chính án thứ 14 bao gồm “điều khoản bảo vệ bình đẳng” và “điều khoản bảo đảm tiến trình xét xử pháp luật” áp dụng vào các tiểu bang.[15] Tu chính án thứ 14 cũng quy định tất cả các đặc quyền phúc lợi và miễn trừ bất khả xâm phạm của công dân Hoa Kỳ áp dụng vào các tiểu bang (“Điều khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”).[16] Do đó, Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã giải trình Tu chính án thứ 14 để mở rộng sự bảo vệ của Tuyên ngôn về quyền tới tất cả các cấp nhà nước tiểu bang. Đặc biệt, Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã sử dụng Điều khoản “Tiến trình Xét xử” để làm cơ sở cho quyền tự do đời tư được trở thành quyền hiến định, bảo đảm chống lại mọi can thiệp hoặc điều tiết của luật lệ tiểu bang.[17]

Tu chính án thứ 15 đảm bảo quyền được bỏ phiếu của tất cả các công dân (bao gồm cả” những người “công dân mới được trả tự do (trước kia vẫn còn là nô lệ)” sau cuộc nội chiến). (Các tu chính án thứ 13, 14, và 15 được gọi là “các tu chính án sau nội chiến.”)

Tu chính án thứ 16 thiết lập quyền đánh thuế của Quốc hội.

Tu chính án thứ 17 thiết lập quy trình cho các cuộc bầu cử trực tiếp nhằm chọn lựa Thượng nghị sĩ Mỹ.

Tu chính án thứ 18 cấm chất rượu cồn (sau đó đã được bãi bỏ để hợp pháp hóa việc bán và dùng rượu trong Tu chính án thứ 21.

Tu chính án thứ 19 thiết lập quyền phụ nữ được bầu cử.

Tu chính án thứ 20 thiết lập bổ sung các điều khoản thời hạn tại chức của Tổng thống, Phó Tổng thống, và Quốc hội.

Tu chính án thứ 21 bãi bỏ tu chính án thứ 18 và hợp pháp hóa việc sử dụng và mua bán rượu.

Tu chính án thứ 22 quy định việc giới hạn thời gian tại chức của Tổng thống.

Tu chính án thứ 23 thiết lập số người đại diện cử tri ở Washington, DC cho cuộc bầu cử Tổng thống. Tu chính án này cho phép Đặc khu thủ đô Columbia có ba phiếu đại diện cử tri.

Tu chính án thứ 24 loại bỏ thuế thân (đóng thuế để được đi bầu cử) nhằm tạo dựng sự bình đẳng của công dân trong quyền bầu cử sau cuộc nội chiến ở Mỹ.

Tu chính án thứ 25 thiết lập các quy tắc cho sự kế nhiệm Tổng thống, được áp dụng trong trường hợp Tổng thống bị bãi nhiệm, chết, từ chức, hoặc thương tật tạm thời hay vĩnh viễn.

Tu chính án thứ 26 quy định việc giảm tuổi bầu cử xuống còn 18 tuổi (kết quả của luật động viên trong thời gian chiến tranh tại Việt
Nam).

Tu chính án thứ 27 quy định thay đổi lương bổng của Quốc hội: Quốc hội có thể bỏ phiếu để tăng lương cho các thành viên của chính mình, nhưng việc tăng lương sẽ chỉ có hiệu lực sau cuộc bầu cử (tức là việc tăng lương sẽ không có hiệu lực cho đến sau khi các nghị sỹ đã hết nhiệm kỳ).

Chú thích:

[1] Vị Tổng thống thứ 4 trong lịch sử Hoa Kỳ, James Madison, được mệnh danh là “Cha đẻ của Hiến pháp,” đã làm sáng tỏ vấn để nổi bật của Hiến pháp là: làm thế nào để Chính phủ có đầy đủ mọi quyền lực thực hiện nhiệm vụ được dân chúng giao mà không xâm phạm tới những quyền tự do cá nhân.

[2] Hiến pháp là văn bản pháp luật tối cao của đất nước. Tưởng cũng nên nói thêm về sự tương quan giữa luật pháp quốc tế và luật pháp nội địa Hoa Kỳ. Luật pháp quốc tế được coi là pháp luật của toàn thế giới. Tuy nhiên, ở Mỹ, một hiệp ước phải được phê chuẩn trong nước thì mới trở thành luật nội địa, để có thể áp dụng ngay trên đất nước. Sau khi được phê chuẩn, hiệp ước sẽ có cùng một mức độ giá trị như một đạo luật liên bang. Nếu hiệp ước và luật liên bang mâu thuẫn với nhau, thì cái nào đến sau sẽ có giá trị thay cái đến trước. Bởi vì một đạo luật liên bang đến sau có thể chấm dứt một hiệp ước đến trước, nên Quốc hội Hoa Kỳ có thể ban hành một đạo luật có hiệu lực kết thúc một hiệp ước mà trước đây Tổng thống đã ký kết. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ – tòa án có quyền lực cao nhất nước Mỹ được hình thành bởi Hiến pháp — đã diễn giải rằng thông luật quốc tế là một phần thiết yếu của luật nội địa áp dụng trong nước Mỹ.

[3] Văn kiện tiên quyết đi trước Hiến pháp là Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ soạn năm 1776, và Điều lệ Liên bang soạn năm 1781. Tại Hội nghị Lập hiến năm 1787, các đại biểu quyết định sửa đổi, thay thế Điều lệ Liên bang bằng cách soạn thảo bản Hiến pháp. Các nhà sáng lập và soạn thảo Hiến pháp Mỹ được coi như các kiến trúc sư chính trị và pháp lý của đất nước, vì họ đã đặt nền móng cho việc xây dựng luật pháp và lý thuyết cộng hòa.

[4] Trong bài viết này, “Bang” (viết hoa chữ cái đầu) đề cập cụ thể đến các bang có chủ quyền; chữ “bang” không viêt hoa (chữ thường) nói chung đề cập đến nhà nước Mỹ, chính phủ liên bang cũng như các tiểu bang.

[5] Tu chính án thứ 14 cũng có một khoản tạo nên đặc quyền phúc lợi và miễn trừ cho công dân, nhằm bảo vệ quyền công dân của liên bang. Ví dụ, Tu chính án thứ 14 được áp dụng để bảo vệ các công dân “mới chuyển đến” một tiểu bang mới.

[6] Ví dụ, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã bác bỏ một điều luật của tiểu bang trong việc hạn chế không cho công dân của các bang khác được gia nhập luật sư đoàn, được hiểu như một đạo luật có tác dụng phân biệt công dân giữa các bang, hoặc làm cản trở việc di chuyển từ bang này đến bang khác (quyền tự do đi lại). Xin xem án lệ Tòa án tối cao New Hampshire kiện Piper, 470 US 274 (1985).

[7] Trong lịch sử nước Mỹ, khoảng 10.000 dự thảo Tu chính án đã được Quốc hội giới thiệu để sửa đổi Hiến pháp. Nhưng chỉ có 27 tu chính án nhận được sự phê chuẩn của ¾ các bang. Tất cả 27 tu chính án này là do Quốc hội đề xuất. Dự thảo Tu chính án gần đây nhất được đề nghị mà không thành công là Tu chính án về quyền bình đẳng giới tính năm 1972 nhằm mục đích tạo dựng cơ chế nam nữ và giới tính bình quyền ở Mỹ. Hiện nay, đầu thế kỷ hai mươi mốt, tuy không có quy định từ Hiến pháp về giới tính bình quyền, một số các tiểu bang ở Mỹ đã cho phép người đồng tính được bình quyền với người khác tính trong lãnh vực cưới hỏi trước pháp luật và trong lãnh vực phúc lợi xã hội.

[8] Lý do ở đây là vì lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ: một quốc gia thành lập bởi dân di cư, chạy trốn sự đàn áp tôn giáo ở Âu châu, cũng như do các cuộc tranh luận mạnh mẽ đi đến việc thành lập một liên bang độc lập thoát khỏi sự cai trị của nước Anh, do sự tập hợp của các tiểu bang. Tu chính án thứ nhất được coi là tinh túy và là quyền ưu tiên cơ bản tại Mỹ, được công lý bảo vệ triệt để tại tòa án. Luật học tạo ra bởi Tòa án liên bang Tối cao đã đưa ra các trường hợp ngoại lệ nhất định rất hạn hẹp gần như trong gang tấc: chỉ trong các trường hợp ngoại lệ rất gay go, rất hạn hẹp trong gang tấc này, Chính phủ mới được quyền giới hạn các quyền tự do cá nhân thuộc về Tu chính án thứ nhất. Tuy nhiên Chính phủ chỉ có thể giới hạn trong chừng mực, miễn là những quy định giới hạn đó được tòa án xem là tối cần thiết cho lợi ích chung được chính phủ bảo vệ, và những quy định đó phải tuân theo thủ tục bảo hiến dưới con mắt của ngành tư pháp dưới tiêu chuẩn “giám sát chặt chẽ” do Tòa án Tối cao Liên bang đặt ra.

[9] Hai điều khoản về “tôn giáo” được viết ngắn gọn trong một câu và đã bị một số học giả chỉ trích, thậm chí cho rằng hai điều khoản ấy gây căng thẳng với nhau: “Quốc hội sẽ không được ban đạo luật tôn sùng cơ sở tôn giáo, hoặc ngăn cấm việc tự do thực hiện hành vi tôn giáo”. Hiến pháp Hoa Kỳ – Điều VI – khoản 3 cũng cấm chính phủ không được sử dụng “bất cứ kỳ thi có tính cách tôn giáo nào trong việc tuyển chọn công chức cho các cơ quan chính quyền hay các văn phòng cần có niềm tin của quần chúng.” Như vậy, Hiến pháp đã tách tôn giáo ra khỏi hẳn nhà nước và thiết lập nước Mỹ thành một chính phủ thế tục không phụ thuộc vào bất kỳ giáo hội nào.

[10] Tuy nhiên, Quốc hội và các bang có thể ban hành luật kiểm soát súng, mặc dù những đạo luật này nói chung có thể không được lòng dân, và đã gây tranh cãi khá gay go trong xã hội Mỹ.

[11] Các quyền về sở hữu tài sản không được quy định trong Hiến pháp. Quyền tư hữu là luật của từng tiểu bang.

[12] Hành vi vi hiến của chính phủ lấy tài sản của dân khác hẳn với việc chính phủ bắt buộc phải ban hành quy định trưng dụng tài sản tư nhân cho các mục đích công chính đáng, đúng theo quyền hạn và trách nhiệm gìn giữ trật tự công cộng của chính phủ. Vì thế, việc phân tích hành động của chính phủ có vi hiến hay không sẽ tùy thuộc vào nhận định xem hành vi ấy có nghiêm trọng đến nỗi bị xem như là “tước đoạt tài sản của dân” trái với Hiến pháp hay không. Các đạo luật phân chia ranh giới phát triển nhà cửa, đô thị, đòi hỏi cư dân phải tuân thủ quy định của chính phủ về việc sử dụng đất đai vì mục tiêu trật tự công cộng đã được xem là hợp hiến.

[13] Ví dụ, ở tiểu bang Gerogia, hình phạt tử hình không được phép thi hành đối với tội hiếp dâm, theo án lệ vụ Coker kiện bang Georgia, 433 US 584 (1977), nhưng nhà nước vẫn có thể thi hành thủ tục Hiến pháp hình sự để áp đặt hình phạt tử hình cho một tội nhân bị kết án về tội giết người, xem thêm vụ Gregg kiện bang Georgia, 428US 153 (1976).

[14] Tuy nhiên, công dân vẫn có thế khởi tố cán bộ, công chức của tiểu bang, nhưng các vị này vẫn có thể được hưởng các đặc quyền miễn trừ theo luật của tiểu bang đó. Hơn thế nữa, đặc quyền miễn trừ đặt ra bởi Tu chính án thứ 11 chỉ có thể áp dụng trong các vụ án mà nguyên đơn đòi thiệt hại, không thể áp dụng vào các đòi hỏi của nguyên đơn xin tòa án phán quyết hay tuyên bố vấn đề gì khác, cũng không cấm việc chính phủ liên bang Mỹ hoặc các tiểu bang khác làm đơn khởi tố.

[15] Đây là một tu chính án rất quan trọng: “Không có một nhá nước nào có thể ban hành hay thực hiện bất cứ một luật lệ nào nhằm mục đích xâm phạm vào đặc quyền phúc lợi hoặc miễn trừ của công dân Mỹ” (“điều khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”), cũng không có một nhà nước nào có thể tước đoạt đi quyền được sống, tự do hoặc tài sản của bất cứ ai, mà không áp dụng đúng theo tiến trình xét xử của luật lệ (“điều khoản tiến trình xét xử””), cũng không được từ chối bất kỳ ai quyền được bình đẳng trước pháp luật” (“điều khoản bảo vệ bình đẳng”). Hiến pháp Hoa Kỳ – Tu chính án thứ 14 – Mục 1.(Nên chú ý: câu trước của Tu chính án này dùng ngôn từ “công dân”, nhưng hai điều khoản bình đẳng thì nói về “bất cứ con người nào (sống ở Mỹ), chứ không dùng từ ngữ “công dân”.)

[16] Nói về Bản Tuyên ngôn Quyền con người của Hoa Kỳ thì Tu chính án thứ 2 và 3 chưa được Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ áp dụng cho các tiểu bang. “Điều khoản truy tố bởi một đại bồi thẩm đoàn” của Tu chính án thứ 5, điều khoản đòi hỏi xét xử bởi bồi thẩm đoàn áp dụng cho các vụ xét xử dân sự theo Tu chính án thứ 7, và Tu chính án thứ 8 cấm việc áp dụng tiền phạt quá mức hợp lý, tất cả đều chưa được áp dụng ở mức tiểu bang. Theo bản chất thì hai tu chính án thứ 9 và thứ 10 không cần phải tuyên bố được áp dụng vào tiểu bang. Vì thế, Bản Tuyên Ngôn Quyền con người, khi đem áp dụng vào tiểu bang và liên bang, thi có sự chênh lệch, mặc dù hầu như nội dung bảo vệ các quyền tự do cơ bản của Tuyên ngôn Quyền thì đều giống nhau ở cả hai cấp: liên bang cũng như tiểu bang.

[17] Xem án lệ vị Roe kiện Wade, 410 US 113 (1973)

* Wendy N. Duong là Cử nhân Truyền thông Đại học Southern Illinois, Thạc sĩ Luật Đại học Harvard, Tiến sĩ Luật học Đại học Houston. Giáo sư Trường  Luật, Đại học Denver, Hoa Kỳ, Học giả Fulbright Hoa Kỳ tại Khoa Luật ĐHQG Hà Nội năm 2011-2012.

Nguồn: Bài viết này là tham luận tác giả gửi tới Hội thảo về sửa đổi Hiến pháp do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội phối hợp với Viện Nghiên cứu Lập pháp tổ chức ở Vĩnh Yên tháng 9 năm 2011.