Giải quyết nợ xấu có tính hệ thống trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam (Phần 1)

Giải quyết nợ xấu có tính hệ thống trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam (Phần 1)

1. Dẫn nhập

Nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam vẫn tiếp tục có dấu hiệu tăng lên. Theo Ngân hàng nhà nước (NHNN), nợ xấu (nhóm 3, 4, 5) chung của hệ thống ngân hàng dựa trên báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD) 6 tháng đầu năm 2012 đã tăng mạnh lên mức 4,6% từ mức 3,72% của năm 2011. Tuy nhiên, nếu dựa trên đánh giá của NHNN thì nợ xấu vào cuối quý II năm 2012 ước khoảng 8,6%.

Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng tăng cao như hiện nay một phần do nguyên nhân chủ quan từ phía các TCTD nhưng có nguyên nhân khách quan từ chính sách tiền tệ trong những năm vừa qua, bao gồm chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích tăng trưởng, chính sách chuyển đổi quá nhanh các ngân hàng nông thôn thành ngân hàng thành thị, và sự yếu kém của công tác giám sát các quan hệ sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng với nhau cũng như giữa khu vực tín dụng và khu vực doanh nghiệp (Đinh Tuấn Minh, 2012).

Những nguyên nhân trên khiến cho nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam có những đặc thù riêng. Thứ nhất, nợ xấu quá hạn của các tổ chức tín dụng không đồng đều. Cụ thể, nợ xấu tại các quĩ tài chính là rất lớn. Tình trung bình, các NHTM nhà nước có tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn cao hơn đáng kể so với nhiều NHTM  cổ phần. Một số các NHTM cổ phần nhỏ có nợ xấu, nợ quá hạn ở mức rất cao; đây là những tổ chức thuộc diện bắt buộc phải tái cơ cấu, sáp nhập vào ngân hàng khác theo đề án tái cơ cấu hệ thống tín dụng của NHNN cuối 2011.

Thứ hai, nợ xấu tại khu vực DNNN rất lớn. Những số liệu mới nhất cho thấy khu vực DNNN hiện đóng góp 70% nợ xấu của toàn hệ thống tín dụng, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu.

Và thứ ba, nợ xấu của Việt Nam gắn khá chặt chẽ với khu vực bất động sản. Dư nợ cho khu vực này chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế chấp bằng BĐS cho các khoản vay khác nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài sản thế chấp. Đặc điểm này khiến cho công tác xử lý nợ xấu sẽ gặp nhiều trở ngại.

Nợ xấu ở mức cao của hệ thống tín dụng khiến cho dòng chảy tín dụng của nền kinh tế bị tắc nghẽn. Trong 8 tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ là 1,4% trong khi tốc độ huy động lên tới gần 10%. Trong thời gian qua, tuy NHNN đã giải quyết tốt vấn đề thanh khoản của hệ thống, tiến hành việc sáp nhập một số các NHTM yếu kém với nhau, nhưng các hoạt động giải quyết nợ xấu vẫn chưa có những tiến triển rõ rệt.

Hiện tại các nhà làm chính sách ở Việt Nam đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan trong việc giải quyết nợ xấu của hệ thống. Một bên là để các NHTM tự giải quyết, và có thể dẫn đến phá sản, dẫn đến nguy cơ bất ổn hệ thống tài chính. Một bên là tiếp tục bảo trợ (bail-out) những ngân hàng này, khiến cho chi phí từ ngân sách tăng cao và kèm theo cả hệ luỵ về rủi ro đạo đức (moral hazard).

Từ kinh nghiệm của các quốc gia trải qua khủng hoảng tài chính trên thế giới, nghiên cứu này cho rằng một khi các ngân hàng đối mặt với nợ xấu tăng cao mang tính hệ thống thì việc xử lý nợ xấu trọn gói cho cả hệ thống ngân hàng là việc cần thiết và phải được tiến hành với quyết tâm cao của chính phủ. Việc hình thành một định chế tài chính độc lập tầm quốc gia, có sự phối hợp chặt chẽ từ phía NHNN và bộ Tài chính, để tiến hành công việc huy động vốn cũng như tiến hành mua bán nợ xấu đóng vai trò then chốt. Tuy nhiên,  việc tiến hành xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thông qua một định chế xử lý nợ xấu quốc gia cần tuân thủ một số nguyên tắc:

  • Cần có quyền lực quyết tập trung để quá trình tái cơ cấu được diễn ra nhanh chóng và toàn diện;
  • Cần có sự chia sẻ chi phí giữa ngân sách nhà nước, các ngân hàng thương mại, và xã hội;
  • Các cổ đông lớn (những người chủ sở hữu ngân hàng) và những khách hàng có nợ xấu sẽ phải gánh chịu chi phí lớn hơn cả. Điều kiện này cần được đưa ra để hạn chế rủi ro đạo đức.

Báo cáo nghiên cứu được bố cục như sau. Phần thứ 2 mô tả về tình hình và đặc thù nợ xấu của Việt Nam. Phần 3 xem xét lý thuyết và thực tiễn thế giới về giải quyết nợ xấu có tình hệ thống. Phần 4 sẽ phân tích các phương án giải quyết nợ xấu của Việt Nam để từ đó lựa chọn ra chiến lược phù hợp nhất. Cuối cùng sẽ là phần tổng kết các kết quả nghiên cứu.

2. Tình hình và đặc thù nợ xấu của Việt nam

Nợ xấu của toàn hệ thống tiếp tục tăng trong năm 2012

Cho tới nay, nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam cụ thể là bao nhiêu vẫn chưa có con số chính xác. Theo NHNN, nợ xấu (nhóm 3,4,5) chung của hệ thống ngân hàng dựa trên báo cáo của các TCTD 6 tháng đầu năm 2012 đã tăng mạnh lên mức 4,6% từ mức 3,72% của năm 2011. Nếu dựa theo kết quả giám sát từ xa của NHNN thì nợ xấu ước khoảng 8,6% tính đến cuối quí I.2012. Tuy nhiên, trong phiên chất vấn tại kỳ họp quốc hội hồi tháng 6.2012, Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại xác nhận nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam ước tính khoảng 10%.

Nợ quá hạn (nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng tăng mạnh vào cuối 2011. Dư nợ quá hạn theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm 31.12.2011 chiếm 11,09 % tổng dư nợ cho vay và tăng 3,32% so với năm 2010. Chắc chắn một phần nợ quá hạn tại thời điểm cuối năm 2011 sẽ chuyển thành nợ xấu trong năm 2012.

Điều đáng lo là nợ quá hạn của nhóm NHTM nhà nước ở mức tương đối cao 13,36% cuối 2011, tăng đáng kể từ mức 10,43% năm 2010. Theo Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia, tính đến hết 2011, nợ quá hạn của nhóm này chiếm 61% tổng nợ quá hạn toàn thị trường (trong khi nhóm này chỉ chiếm 50,64% thị phần tín dụng).

Bảng 1: Nợ quá hạn và nợ xấu toàn hệ thống, 2010-31.05.2012

 

2010

2011

31.05.2012

 

Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ

NHTM NN

2,16%

10,43%

2,95%

13,36%

--

--

NHTM CP

1,66%

3,53%

2,30%

6,43%

--

--

Toàn ngành

2,21%

7,69%

3,10%

10,47%

4,47% (8,6%)

--

 

(*) Số liệu về nợ xấu toàn hệ thống trong ngoặc là theo đánh giá của NHNN đến 31.03.2012

Nguồn: Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 và công bố của NHNN

Các ngân hàng bắt đầu phải tăng trích lập dự phòng khiến lợi nhuận bị suy giảm

Mặc dù nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng tăng cao, nhưng tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu lại có xu hướng giảm (Đinh Tuấn Minh, 2012).

Tuy nhiên, bắt đầu từ quý II.2012, các ngân hàng đã bắt đầu phải tăng mạnh trích lập dự phòng, và chính vì điều này nên lợi nhuận của một số ngân hàng đã bị ảnh hưởng đáng kể. Chẳng hạn, Vietcombank đã phải trích lập 1.088 tỷ đồng khiến lợi nhuận quí II chỉ còn 1.124 tỷ động, giảm 10% so với quí II.2011. Tương tự, Vietinbank trích lập dự phòng 1.453 tỷ đồng nên lãi sau thuế quí II.2012 chỉ còn 5645 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm trước. Eximbank và ACB cũng phải trích lập dự phòng lớn khiến cho lợi nhuận bị suy giảm đáng kể.

Nợ xấu khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhưng rất khó giải quyết bằng giải pháp thị trường

Theo báo cáo của Uỷ ban tài chính-ngân sách của Quốc hội trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tháng 9.2012 thì “DNNN sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các Tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu”. Lấy số ước tính nợ xấu của hệ thống là 10% tổng dư nợ tín dụng, như theo xác nhận của Thống đốc NHNN hối tháng 6.2012, thì nợ xấu của khu vực DNNN sẽ ước khoảng 200 nghìn tỷ đồng và nợ xấu của các Tập đoàn kinh tế, tổng công ty sẽ vào khoảng 153 nghìn tỷ đồng.

Theo Đề án tái cấu trúc khu vực DNNN của Bộ Tài chính năm 2012 thì dư nợ của 80/96 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đến cuối 2010 là 872.860 tỉ đồng, bằng 1,6 lần vốn chủ sở hữu. Tính đến tháng 9/2011 dư nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp Nhà nước lớn đạt trên 415.000 tỷ đồng, tương đương gần 17% tổng dự nợ tín dụng tại các ngân hàng. Trong đó, nợ vay của 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về những “tên tuổi” như Tập đoàn Dầu khí (PVN - 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN - 62.800 tỷ đồng), Than & khoáng sản (Vinacomin - 19.600 tỷ đồng). Với những con số như trên thì nợ xấu của khối Tập đoàn, tổng công ty trong hệ thống ngân hàng thương mại sẽ chiếm tới 30-35% tổng dư nợ tín dụng của khối này.

Một đặc điểm nữa cần lưu ý về nợ xấu của khu vực DNNN là khu vực này được vay ưu đãi từ Ngân hàng phát triển (VDB) và tỷ lệ nợ xấu ở VDB cũng rất lớn. Nguồn vốn của Ngân hàng phát triển đến từ phát hành giấy tờ có giá và nhận vốn ODA cho vay lại chiếm 72,4% trong năm 2009. Một phần lớn nguồn vốn này sau đó được VDB cho các DNNN vay ưu đãi để đầu tư. 3 Theo ông Nguyễn Quang Dũng Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển (VDB) thì “Nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm độ khoảng 75-80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển… Tình hình như hiện nay, có rất nhiều đồng chí lãnh đạo tập đoàn, tổng công ty có văn bản gửi cho tôi đề nghị lùi nợ, giãn nợ” (Vneconomy, 13/9/2011).

Nợ quá hạn và khoanh nợ của VDB đối với cho vay trung và dài hạn tín dụng đầu tư có thời điểm lên tới 8,9% vào năm 2007 nhưng đã giảm xuống còn 3,75% vào năm 2009 (báo cáo tài chính các năm của VDB). Theo báo cáo Kiểm toán nhà nước về tình hình hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính thì tỷ lệ nợ xấu của VDB ở mức 12,05% vào cuối 2010. Với tình hình nợ xấu chung của toàn hệ thống năm 2011 cao hơn năm 2010 và năm 2012 lại cao hơn 2011 thì tỷ lệ nợ xấu của VDB hiện tại có thể cao hơn rất nhiều con số trên. Và rõ ràng đó đều là nợ xấu của khu vực DNNN. Bởi nợ xấu tại VDB được tính riêng, ngoài số nợ xấu tại hệ thống các tổ chức tín dụng, nên nếu tính gộp cả nợ tại VDB thì con số nợ xấu tại khu vực DNNN sẽ còn cao hơn con số 200 nghìn tỷ đồng.

Nguyên nhân chính khiến cho khu vực DNNN có nợ xấu nhiều là vì khu vực này được hưởng những ưu đãi đặc biệt về tín dụng trong việc vay tín chấp. Các DNNN có khả năng và cơ hội sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn các doanh nghiệp khu vực khác. Tuy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của DNNN có xu hướng giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở mức 2,52 lần vào năm 2009, cao hơn nhiều so với mức 1,78 lần của khu vực tư nhân và 1,39 lần của khu vực vốn FDI. Các DNNN trung ương thậm chí có tỷ lệ này cao hơn, lên tới 3,53 lần. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều của khu vực DNNN cũng được phản ánh trong Đề án tái cơ cấu khu vực DNNN của bộ Tài chính (2012). “Có đến 30/85 tập đoàn, tổng công ty tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu trên 3 lần, đặc biệt có 07 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ trên 10 lần (như TCT Xây dựng công nghiệp; TCT Xây dựng CTGT 1; TCT Xây dựng CTGT 5; TCT Xây dựng CTGT 8; TCT Xăng dầu quân đội; TCT Thành An; TCT Phát triển đường cao tốc)”.

Nợ xấu tại khu vực DNNN rất khó giải quyết. Khác với các DN tư nhân, vốn có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các doanh nghiệp khác để có tiền trả nợ ngân hàng nhằm tránh phá sản, các DNNN rất khó có thể bán tài sản hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy thoái. Vì vậy, các khoản nợ mà các DNNN vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn, v.v.

Các hình thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ khoanh nợ (chẳng hạn như việc khoanh nợ cho Vinashin tại các NHTM) thì cuối cùng chính phủ vẫn phải bỏ một phần tiền ra để bù đắp; hình thức chuyển nợ (như của Vinashin cho Vinalines và PVN) có thể khiến các DNNN khác lâm vào khó khăn và cuối cùng gánh nặng lại đè lên vai nhà nước; hình thức bổ sung vốn (như tăng vốn điều lệ cho Vinashin từ 9.000 tỷ đồng lên 14.655 tỷ đồng) thì đó vẫn là tiền từ ngân sách nhà nước. Khoản vay 45 triệu USD  từ ngân hàng ANZ cho dự án Xi măng Đồng Bành do Tổng công ty Cơ khí xây dựng (COMA) hay Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp (MIE) đầu tư cũng được Bộ tài chính đứng ra bảo lãnh khi dự án này rơi vào tình trạng thua lỗ không trả được nợ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức cao, 54,8% GDP cuối năm 2011, và nguy cơ thâm hụt ngân sách trong năm 2012 tăng trở lại do nguồn thu giảm trong khi nguồn chi tăng, thì khả năng hỗ trợ của ngân sách nhà nước để giảm nợ của khu vực DNNN sẽ vô cùng khó khăn. Điều này hàm ý rằng việc giải quyết nợ xấu của khu vực DNNN sẽ thực sự là một bài toán nan giải đối với Việt Nam trừ phi có những thay đổi quyết liệt về chính sách liên quan đến việc mua bán tài sản tại khu vực này.

Nợ xấu do đầu tư vào bất động sản và cơ sở hạ tầng

Thị trường bất động sản Việt Nam tiếp tục chứng kiến một năm giao dịch ảm đạm với mức giá tại hầu hết các phân khúc thị trường đều giảm. Nhiều dự án căn hộ tiếp tục giảm giá từ 5%-30% so với cuối 2011.

Việc thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm có nguyên nhân từ cơ cấu phân bổ nguồn vốn không hợp lý của các ngân hàng trong các năm trước. Khi NHNN duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ, các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư mạnh phát triển các dự án trong lĩnh vực bất động sản, khu công nghiệp… Người dân cũng sẵn sàng vay tiền của ngân hàng để đầu tư bất động sản.

Việc phải dựa quá nhiều vào tín dụng ngân hàng để phát triển cơ sở hạ tầng trong quá khứ khiến cho thị trường BĐS bị ảnh hưởng mạnh khi tín dụng thắt chặt từ năm 2011. Do tăng trưởng kinh tế chậm lại và mặt bằng giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu điều chỉnh tăng, tiết kiệm của người dân bị ảnh hưởng. Vì việc tiêu thụ bất động sản hiện tại phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tiền tiệt kiệm nên khi nguồn tiết kiệm bị ảnh hưởng, sự phục hồi của khu vực này sẽ tiếp tục chậm chạp.

Vấn đề cần lưu ý là bất động sản cũng là nguồn thế chấp tài sản lớn nhất của các doanh nghiệp cũng như người dân trong việc vay vốn của ngân hàng. Theo những tính toán gần đây nhất của NHNN thì tỷ lệ thế chấp bằng BĐS chiếm khoảng 60% tổng tài sản đảm bảo của các ngân hàng.[4] Khi thị trường BĐS suy giảm, những khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi bất động sản sẽ rất khó thanh lý. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp sẽ khiến cho giá BĐS bị suy giảm thêm và làm trầm trọng thêm tình hình nợ xấu của nền kinh tế.

Một phần nợ xấu do tăng vốn ảo của các tổ chức tín dụng có quan hệ chồng chéo với nhau

Trước nhu cầu huy động vốn tăng cao để đáp ứng đòi hỏi tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế, trong giai đoạn 2005-2007, NHNN đã chấp nhận cho phép 13 ngân hàng được chuyển đổi từ mô hình nông thôn lên thành thị. Các ngân hàng này trước khi chuyển đổi, vốn điều lệ chỉ có khoảng vài chục đến vài trăm tỷ đồng. Tuy nhiên, theo yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào năm 2011, các NHTM này đã buộc phải tăng vốn chủ sở hữu lên 10-20 lần chỉ trong vòng chỉ 5 năm (xem Đinh Tuấn Minh, 2012).

Vì huy động vốn trong giai đoạn 2008-2011 rất khó khăn nên để đảm bảo được yêu cẩu của NHNN các ngân hàng nhỏ đã phải dùng nhiều chiêu thức để tăng vốn điều lệ. Mô thức tiêu biểu là, ngân hàng X mua đầu tư trái phiếu hoặc kỳ phiếu (hợp đồng mua bán có kỳ hạn) của một công ty A và sau đó công ty A, qua nhiều kênh khác nhau, dùng tiền bán trái phiếu đó góp vốn vào ngân hàng X. Khi đến thời điểm đáo hạn trái phiếu, công ty A không có khả năng trả tiền cho ngân hàng và khoản tiền mua trái phiếu đó trở thành nợ xấu. Như ta thấy, thực chất thì khoản nợ xấu này hoàn toàn ảo vì nó không được dùng vào cho một dự án kinh doanh cụ thể nào. Nó chỉ là khoản tiền lòng vòng để tăng vốn điều lệ cho chính ngân hàng đó.

Để có thể hợp pháp hoá được cách tăng vốn điều lệ kiểu này thì giữa ngân hàng và doanh nghiệp buộc phải có quan hệ sở hữu chéo. Các ngân hàng thường là “sân sau” của các tập đoàn, cả nhà nước lẫn tư nhân. Lượng vốn chủ sở hữu tăng lớn như vậy buộc phải dựa vào vốn đóng góp của chính các doanh nghiệp đứng đằng sau ngân hàng này. Một vấn đề khác nảy sinh khi tốc độ tăng vốn chủ sở hữu quá nhanh của nhóm ngân hàng này là chính các tập đoàn đằng sau các ngân hàng này cũng phải vay vốn từ các ngân hàng khác để đáp ứng yêu cầu. Hệ quả là vốn vay của các tập đoàn bị sử dụng sai mục đích.

Để vốn ảo trở thành vốn thật thì các ngân hàng thuộc nhóm này buộc phải phải phát triển với tốc độ cực nhanh, tức phải tăng trưởng tài sản bằng mọi giá để tương ứng với lượng vốn chủ sở hữu tăng thêm. Số liệu của 10 ngân hàng chuyển đổi từ nông thôn ra thành thị cho thấy tổng tài sản của nhóm này đã tăng tới 343,6% trong vòng 3 năm. Lưu ý rằng, tốc độ tăng trưởng tín dụng của nhóm này chỉ tăng 285,6%. Điều này cho thấy các ngân hàng này đã đầu tư khá nhiều vào “chứng khoán kinh doanh” hoặc “chứng khoán đầu tư”, vốn là các loại tài sản có tính rủi ro cao ngay cả khi đây là những khoản đầu tư thật (tức không phải là khoản “đầu tư” để cấp vốn cho doanh nghiệp quay trở lại góp vốn “ảo” cho ngân hàng).

Do trình độ quản trị của các ngân hàng này không theo kịp với đà tăng tài sản dẫn đến việc chất lượng tín dụng của các ngân hàng này kém. Ngoài ra, do việc sở hữu chồng chéo giữa khu vực doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng nợ xấu, nợ quá hạn trở thành dắt dây trong toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Vì lẽ đó, việc khoanh lại nhóm các ngân hàng yếu kém để tái cấu trúc không dễ dàng chút nào.

Bảng 3: Một số chỉ số của 10 ngân hàng chuyển đổi (*) từ nông thôn ra thành thị

 

2008

2011

Thay đổi

Tổng vốn chủ sở hữu (tỷ đồng)

9.787

32.754

234,7%

Tổng huy động từ khách hàng (tỷ đồng)

35.852

153.159

327,2%

Tổng tài sản (tỷ đồng)

67.491

299.410

343,6%

Tổng dư nợ (tỷ đồng)

31.549

121.652

285,6%

Tỷ lệ tổng dư nợ trên tổng huy động

88%

79,4%

 

Tỷ lệ tổng dư nợ trên tổng tài sản

46,7%

40,6%

 

(*) 10 ngân hàng chuyển đổi là: OceanBank, SHB, NaviBank, GPBank, KienlongBank, TrustBank, WesternBank, DaiABank, PGBank, MekongDevBank.

Chú thích:

(1) Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN (bổ sung, sửa đổi bởi 18/2007/QĐ-NHNN) qui định việc phân nhóm các khoản tín dụng của các tổ chức tín dụng thành 5 nhóm như sau:

  • Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. Nợ Nhóm 1 phải trích lập dự phòng 0%;

- Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Nợ Nhóm 2 phải trích lập dự phòng 5%;

- Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu  lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày. Nợ Nhóm 3 phải trích lập dự phòng 20%;

- Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày. Nợ Nhóm 4 phải trích lập dự phòng 50%; và

- Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Nợ Nhóm 5 phải trích lập dự phòng 100%.

Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, tổ chức tín dụng “có đủ khả năng và điều kiện” vẫn có quyền áp dụng phương pháp “định tính”, tức chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn (hoặc thấp hơn) tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm (hoặc tốt hơn) (Điều 7, QĐ 493). Thường thì các TCTD áp dụng áp dụng phương pháp “định tính” này theo chiều hướng chuyển các khoản nợ ở nhóm cao sang nhóm thấp để giảm trích lập dự phòng.

(2) Chú thích 14 trong Báo cáo số 822/BC-UBTCNS13 của Uỷ ban Tài chính-Ngan sách, Quốc hội khoá VIII về  “Thẩm tra sơ bộ kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2012” trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 17.09.2012.

(3) Từ thông tin báo chí chúng ta được biết riêng trong năm 2011, Vinashin vay ưu đãi Ngân hàng phát triển gần 300 tỷ lãi suất bằng 0 để hỗ trợ trả lương và phụ cấp;  EVN được vay VDB hơn 5000 tỷ đồng.  Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ đồng v.v.

(4) Trả lời của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình ngày 11.4.2012 tại cuộc họp báo về những điều chỉnh chính sách, trọng tâm là lãi suất và cơ chế tín dụng mới. Xem tin tại: http://vneconomy.vn/20120411122816120P0C6/thong-doc-da-mo-dan-tin-dung-bat-dong-san.htm

Nguồn: Tổng hợp từ CafeF (http://cafef.vn/20120911071518412CA34/ngan-hang-nong-thon-voi-va-ra-do-thi-mot-nguon-con-cua-bung-phat-no-xau.chn)

Nguồn: Báo cáo đăng tại Kỷ yếu Diễn Đàn Kinh tế Mùa Thu 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức tại TP. Vũng Tàu ngày 28.09.2012.