Kinh tế học và Tri thức (Phần 1/4)
1
Sự mơ hồ của tiêu đề bài luận này không phải là vô tình. Dĩ nhiên chủ đề chính mà nó bàn đến là về vai trò của các giả thiết và định đề về tri thức sở hữu bởi các thành viên khác nhau trong xã hội hiện diện trong phân tích kinh tế. Nhưng không có nghĩa bài luận không hề quan tâm gì tới một câu hỏi khác có thể được bàn luận với cùng tiêu đề: phân tích kinh tế hình thức truyền tải được bao nhiêu tri thức về các hiện tượng xảy ra trong thế giới thực? Thực ra, luận điểm chính của tôi là: các hằng đề (tautologies), thành phần thiết yếu của phân tích cân bằng hình thức trong kinh tế học, chỉ có thể trở thành các định đề truyền tải tri thức về mối quan hệ nhân quả trong thế giới thực chừng nào chúng ta có khả năng thổi vào hệ thống những định đề hình thức đó các mệnh đề xác định về cách thức tiếp thu và truyền đạt tri thức. Nói ngắn gọn, tôi cho rằng yếu tố thực nghiệm trong lí thuyết kinh tế - phần duy nhất liên quan không chỉ tới các cách suy luận mà còn tới các nguyên nhân và kết quả trong thế giới thực, và do vậy đưa đến những kết luận, trên nguyên tắc, có thể kiểm chứng được1 - chứa đựng các định đề về sự tiếp thu tri thức.
Tôi xin bắt đầu bằng việc nhắc lại một thực tế thú vị. Rất nhiều nỗ lực nhằm đưa nghiên cứu lí thuyết vượt ra ngoài phạm vi phân tích cân bằng truyền thống trong thời gian gần đây ở nhiều chuyên ngành khác nhau đều nhanh chóng quay trở lại đòi hỏi phải làm sáng tỏ các giả thiết, mà nếu không hoàn toàn thì ít nhất cũng một phần đồng nhất với quan điểm của tôi đó là về khả năng tiên đoán (foresight). Như nhiều người khác, tôi nghĩ rằng lí thuyết về rủi ro là lĩnh vực đầu tiên thu hút rộng rãi tranh luận về các giả thiết về khả năng tiên đoán2. Công trình nghiên cứu của Frank H. Knight trong lĩnh vực này có lẽ là một cú hích tạo ảnh hưởng mạnh mẽ vượt ra ngoài phạm vi chuyên ngành của nó. Không lâu sau đó, các giả thiết về khả năng tiên đoán đã thể hiện vai trò nền tảng trong việc giải đáp các vấn đề hóc búa về lí thuyết cạnh tranh không hoàn hảo, về lưỡng độc quyền và độc quyền nhóm. Các giả thiết về khả năng tiên đoán và “phỏng đoán” cũng ngày càng thể hiện vai trò quan trọng không kém trong nghiên cứu về các vấn đề “động” (dynamic) liên quan tới tiền tệ và dao động ngành. Cụ thể hơn, những khái niệm đã được đưa vào trong các lĩnh vực này từ phân tích cân bằng hình thức, chẳng hạn như những khái niệm về mức lãi suất cân bằng, có thể được định nghĩa chính xác chỉ với sự hiện diện của các giả thiết liên quan tới khả năng tiên đoán. Mấu chốt ở đây có lẽ là, trước khi có thể giải thích tại sao người ta phạm sai lầm, trước hết chúng ta phải giải thích tại sao họ lại đúng cái đã.
Nói chung, dường như đã tới điểm mà tất cả chúng ta đều nhận thấy là bản thân khái niệm cân bằng chỉ có thể được xác định và trở nên rõ ràng khi có sự hiện diện của các giả thiết về khả năng tiên đoán, bất chấp việc chúng ta vẫn chưa hoàn toàn nhất trí được với nhau các giả thiết cốt yếu này chính xác là gì. Đây là câu hỏi khiến tôi phải tốn nhiều giấy mực ở phần sau của bài viết. Nhưng hiện tại mối bận tâm duy nhất của tôi là chỉ ra dù chúng ta có muốn xác định ranh giới cho việc phân tích tĩnh kinh tế (economic statics) hay là muốn đi xa hơn nữa thì chúng ta vẫn không thể tránh khỏi vấn đề gây tranh cãi: các giả thiết về khả năng tiên đoán chính xác nằm ở đâu trong lập luận của chúng ta? Chẳng lẽ đơn thuần đấy chỉ là một sự ngẫu nhiên?
Thực ra thì câu hỏi trên có lẽ chỉ là một khía cạnh rất nhỏ của một vấn đề khổng lồ hơn nhiều mà chúng ta đã nêu ra ngay ở phần đầu. Trên thực tế, những câu hỏi về cơ bản tương tự những câu hỏi trên sẽ nảy sinh ngay khi chúng ta thử áp dụng hệ thống các hằng đề - các chuỗi định đề chắc chắn đúng vì chúng đơn thuần chỉ là những biến đổi của các giả thiết đưa ra ban đầu, và chúng cấu thành nội dung chính của phân tích cân bằng3 - vào trong bối cảnh một xã hội gồm một số người độc lập. Đã từ lâu, tôi cảm thấy rằng bản thân khái niệm cân bằng và các phương pháp được sử dụng trong phân tích hình thức thuần tuý chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng ta giới hạn chúng trong phân tích hành động của một cá nhân đơn lẻ và rằng chúng ta thực sự đang bước sang một lĩnh vực khác và lặng lẽ đưa vào trong phân tích một yếu tố mới với đặc điểm hoàn toàn khác khi chúng ta áp dụng hệ thống các hằng đề để giải thích các tương tác của một số cá nhân khác nhau.
Tôi tin rằng có nhiều người không còn đủ kiên nhẫn và tin tưởng vào xu hướng chung xuất hiện trong các phân tích cân bằng hiện đại: xu hướng chuyển kinh tế học thành một bộ môn logic thuần tuý, một tập những định đề hiển nhiên, tương tự toán học hay hình học, có sự nhất quán nội tại, không phụ thuộc vào các kiểm nghiệm. Tuy nhiên, nếu chỉ theo đuổi quá trình này, kinh tế học có lẽ chỉ còn là một mớ công cụ. Trong quá trình chắt lọc các phần tử thuần túy tiên nghiệm (a priori) từ những lí giải của chúng ta về các thực tế trong đời sống kinh tế, chúng ta chẳng những tách ra được một phần tử tiên nghiệm dưới dạng Logic Thuần túy về Lựa chọn (Pure Logic of Choice), mà còn cô lập và làm nổi bật vai trò của một phần tử tiên nghiệm khác vốn chẳng được ai nhòm ngó đến. Phê phán của tôi đối với những xu hướng gần đây về xây dựng lí thuyết kinh tế ngày càng hình thức không phải là ở chỗ chúng ta đã đi quá xa mà là chúng ta vẫn chưa làm đến nơi đến chốn việc phân tách bộ môn logic này nhằm đưa việc nghiên cứu các quá trình nhân quả trong thế giới thực vào đúng vị trí của nó thông qua việc sử dụng lí thuyết kinh tế hình thức như là một công cụ giống như toán học.
2
Nhưng để có thể chứng minh luận điểm rằng không thể áp dụng trực tiếp các hằng đề trong phân tích cân bằng thuần túy vào việc giải thích các quan hệ xã hội thì trước tiên tôi phải chỉ ra rằng khái niệm cân bằng mang một nghĩa rõ ràng khi nó được áp dụng cho các hành động của một cá nhân đơn lẻ. Vậy nghĩa này là gì? Để phản bác lại luận điểm của tôi người ta có thể nói rằng chính tại đây khái niệm cân bằng không có ý nghĩa, bởi vì, nếu người ta muốn áp dụng nó, tất cả những gì người ta có thể rút ra sẽ là: một cá nhân đơn lẻ vốn dĩ đã luôn ở trạng thái cân bằng. Nhưng mệnh đề cuối cùng này, mặc dù là một sự thật hiển nhiên, không cho ta biết bất cứ điều gì khác hơn ngoài cách thức mà khái niệm cân bằng thường bị sử dụng sai. Vấn đề không phải là ở chỗ liệu một người như thế có ở trạng thái cân bằng hay không mà là những hành động nào của anh ta nằm trong các mối quan hệ cân bằng với nhau. Tất cả những định đề trong phân tích cân bằng, như định đề cho rằng các giá trị tương đối sẽ tương ứng với các chi phí tương đối, hay một người sẽ cân bằng những lợi ích cận biên của bất kỳ một yếu tố nào giữa các cách sử dụng khác nhau của yếu tố này, là những định đề về các mối quan hệ giữa các hành động. Các hành động của một người có thể được coi là ở trạng thái cân bằng chỉ trong chừng mực khi chúng có thể được xem như là bộ phận của một kế hoạch. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, tức là chỉ khi tất cả những hành động này đã được quyết định tại cùng một thời điểm và với sự cân nhắc tới cùng một tập các hoàn cảnh thì chúng ta mới có thể đưa ra các mệnh đề về mối quan hệ mắt xích giữa những hành động từ các giả thiết về tri thức và sở thích của người này. Cần phải nhớ rằng cái gọi là “dữ liệu” (data), mà chúng ta nhào nặn trong quá trình phân tích cân bằng, là tất cả những sự kiện (facts) (không kể phần sở thích của anh ta ra) có sẵn đối với người đang được chúng ta xem xét, những cái mà anh ta biết (hay tin) là tồn tại, và không phải là các sự kiện khách quan xét dưới bất kỳ khía cạnh nào. Chỉ với điều kiện này thì các định đề mà chúng ta rút ra mới đảm bảo hợp lệ về mặt logic và tính nhất quán của luận điểm được đảm bảo4.
Hai kết luận chính rút ra từ những phân tích trên là, thứ nhất, do những quan hệ cân bằng giữa các hành động kế tiếp của một người chỉ tồn tại khi chúng là một phần của quá trình thực thi cùng một kế hoạch nên bất kỳ sự thay đổi nào về tri thức liên quan tới kế hoạch đó của người này, tức bất kỳ thay đổi nào khiến anh ta thay đổi kế hoạch, đều phá vỡ mối quan hệ cân bằng giữa các hành động được anh ta thực hiện ở những thời điểm trước và sau khi có sự thay đổi về tri thức. Nói cách khác, mối quan hệ cân bằng chỉ bao gồm các hành động trong giai đoạn mà những dự tính của anh ta tỏ ra là đúng. Thứ hai, do cân bằng là mối quan hệ giữa các hành động, và do những hành động của một người dứt khoát phải xảy ra liên tiếp theo thời gian, nên hiển nhiên dòng thời gian là yếu tố không thể thiếu nếu muốn khái niệm cân bằng có một ý nghĩa nào đó. Điều này đáng để bàn do nhiều nhà kinh tế dường như không đủ khả năng tìm ra một vị trí cho thời gian trong phân tích cân bằng và đã dẫn đến việc đưa ra ý tưởng cân bằng phải được nhìn nhận như là không chịu ảnh hưởng của thời gian. Đối với tôi, đây là một mệnh đề vô nghĩa.
(còn nữa)
Chú thích:
(*) Bài phát biểu của chủ tịch trước Câu lạc bộ Kinh tế London, tháng 10, 1936; được in lại trong Economica, Vol. IV, 1937, tr. 33-54.
(1) Hay cho phép phủ chứng (falsification) (xem K. R. Popper, Logik der Foschung, Vienna, 1935, nhiều đoạn).
(2) Một khảo cứu hoàn thiện hơn về quá trình theo đó vai trò của các phỏng đoán được dần đưa vào trong phân tích kinh tế có lẽ nên bắt đầu bằng tác phẩm của Irving Fisher, Appreciation and Interest, 1896.
(3) Tôi muốn làm rõ ràng ngay từ đầu là thuật ngữ "phân tích cân bằng" mà tôi sử dụng xuyên suốt bài viết này có nghĩa hẹp hơn, tương đương với thuật ngữ “cách tiếp cận chức năng” của Hans Mayer (phân biệt với “cách tiếp cận nhân quả tổng quát” (causal-generic)), và tương đương cách dùng của "trường phái toán học" (một cái tên chưa thật sự chuẩn xác lắm). Hầu hết các tranh luận lí thuyết cách đây mươi mười lăm năm xảy ra xung quanh cách tiếp cận này. Đúng là Mayer đã đi trước chúng ta một bước khi kiên trì theo đuổi phương pháp "nhân quả tổng quát", nhưng cũng không thể chối bỏ là cách tiếp cận “chức năng” này vẫn còn nhiều hứa hẹn. Tại đây tôi cũng muốn xác nhận là một số gợi ý quan trọng trong bài báo của ông có liên quan mật thiết với những vấn đề được giải quyết ở đây. Xem H. Mayer, "Der Erkenntniswert der funktionellen Preistheorien”, Die Wirtschaftstheorie der Gegenwart, Vol. II, 1931; P. N. Rosenstein-Rodan, "Das Zeitmoment in der Mathematischen Theorie des wirtschaftlichen Gleichgewichts”, Zeitschrift fur Nationalokonomie, Vol. I, No. 1, và "The Role of Time in Economic Theory”, Economica (N.S.), Vol. I (1), 1934.
(4) Bàn về điểm này một cách cụ thể, xem Ludwig von Mises, Grundprobleme der Nationalokonomie, Jena, 1933, tr. 22 và trang tiếp theo, tr. 160 và trang tiếp theo.
Nguồn: F.A. Hayek, Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế, Chương 2, NXB Tri thức, 2016