Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 2)

Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 2)

Ý niệm cho rằng người ta có thể khám phá được những khuôn mẫu rộng lớn hay những tính quy luật trong tiến trình các sự kiện lịch sử, [ý niệm ấy] thật hấp dẫn một cách tự nhiên đối với những ai cảm thấy ấn tượng trước thành công của các khoa học tự nhiên trong việc phân loại, tìm mối tương quan và nhất là tiên đoán. Theo hệ luận họ tìm kiếm việc mở rộng tri thức lịch sử để lấp đầy những khoảng trống trong quá khứ (và thi thoảng tạo dựng thêm nó vào khoảng trống vô hạn của tương lai) bằng cách áp dụng phương pháp “khoa học”: được vũ trang bởi một hệ thống siêu hình học hay hệ thống thường nghiệm, xuất phát từ những ốc đảo của tri thức chắc chắn, hay hầu như chắc chắn, về những sự kiện mà họ tự cho là nắm bắt được. Chắc chắn là nhiều việc đã được hoàn tất và sẽ được hoàn tất, trong lĩnh vực lịch sử cũng như trong các lĩnh vực khác, bằng cách bàn luận từ cái đã biết đến cái chưa biết, hoặc là từ cái còn ít biết đến cái còn ít biết hơn thế nữa67. Tuy nhiên, dù giá trị của sự tri giác về các khuôn mẫu hay các tính thống nhất có là thế nào đi nữa trong việc kiểm chứng các giả thuyết đặc thù về quá khứ hay về tương lai, thì nó đã và vẫn đang đóng một vai trò khả nghi trong việc định hình một thế giới quan trong thời đại hiện nay. Nó đã tác động không chỉ đến cung cách quan sát và mô tả những hoạt động và tính cách của con người, mà còn tác động đến những thái độ chính trị và tôn giáo hướng đến con người. Bởi vì rằng trong những câu hỏi buộc phải xuất hiện trong bất cứ xem xét nào về chuyện con người hành xử và sống thế nào và tại sao họ lại như thế, đều là những câu hỏi về động cơ và trách nhiệm của con người.

Trong việc mô tả hành vi của con người, người ta luôn bỏ qua một cách giả tạo và quá đơn giản những câu hỏi về tính cách, những mục tiêu và những động cơ của các cá nhân. Và trong khi xem xét những câu hỏi này người ta tự động đánh giá không phải chỉ đơn thuần mức độ và loại ảnh hưởng của động cơ này hay động cơ khác, của tính cách này hay tính cách khác về những gì đã xảy ra, mà còn đánh giá cả phẩm tính đạo đức hay chính trị dựa trên bất cứ thang bậc giá trị nào mà người ta tiếp thu có ý thức hay với một nửa ý thức trong tư duy và hành động của mình. Tình thế này hay tình thế kia đã xuất hiện thế nào? Kẻ nào hay điều gì đã hay đang phải chịu trách nhiệm về một cuộc chiến tranh, một cuộc cách mạng, một vụ sụp đổ kinh tế, một cuộc hồi sinh của nghệ thuật và văn chương, một phát minh hay sáng chế, một cuộc cải cách tinh thần làm biến đổi cuộc sống của những con người? Cho đến nay lối nói quen thuộc là cho rằng có lí thuyết lịch sử cá nhân luận và lí thuyết lịch sử khách quan. Một mặt, có những lí thuyết theo đó cuộc sống của toàn bộ dân chúng và xã hội đã bị ảnh hưởng một cách rõ ràng bởi các cá nhân xuất chúng68 - hoặc ngược lại là những học thuyết theo đó mọi chuyện xảy ra đều là kết quả không phải do những mong muốn hay mục tiêu của những cá nhân có thể nhận diện được, mà là của cái số đông rộng lớn những con người vô danh với giới hạn rằng những mong muốn và mục tiêu tập thể ấy không phải được quyết định duy nhất hay thậm chí không phải được quyết định nhiều bởi các yếu tố khách quan, và rằng vì vậy mà không thể được diễn dịch ra hoàn toàn, hay thậm chí phần nhiều đi nữa, từ tri thức chỉ riêng về các sức mạnh tự nhiên, ví dụ như môi trường hay khí hậu, hay các quá trình vật lí, sinh lí và tâm lí. Đứng ở quan điểm nào là chuyện của các nhà sử học khảo sát xem ai đã muốn cái gì, khi nào, và ở đâu, bằng cách nào; bao nhiêu người tránh được hay theo đuổi mục đích này hay mục đích kia, với mức độ nào; rồi đi xa hơn nữa là tra vấn xem trong những hoàn cảnh nào những khao khát hay nỗi sợ hãi như thế đã tỏ ra có hiệu quả, và tới mức độ nào, kéo theo những hậu quả gì.

Chống lại loại diễn giải thứ nhất, dựa vào những mục tiêu và tính cách của các cá nhân, có cả một chùm các quan điểm (sự tiến bộ của các khoa học tự nhiên đem lại uy tín lớn ngày càng tăng cho những quan điểm này) theo đó mọi giải thích dựa trên những ý định của con nguời - [loại giải thích như thế] bắt nguồn từ một mớ những thói phù phiếm và sự dốt nát khó chữa. Những quan điểm này dựa trên giả định rằng niềm tin vào tầm quan trọng của các động cơ chỉ là hão huyền; rằng hành vi của người ta thực ra được tạo nên bởi những nguyên nhân phần nhiều nằm ngoài sự kiểm soát của các cá nhân; ví dụ như do ảnh hưởng của các yếu tố vật thể hay của môi trường hay của tập quán; hoặc giả là do sinh ra “tự nhiên” của một bộ phận rộng lớn hơn - một chủng tộc, một quốc gia, một giai cấp, những chủng loài sinh vật học; hoặc là (theo một số người viết) bởi một thực thể nào đó thậm chí dưới dạng thức ít thường nghiệm hơn - một cơ thể “tâm linh”, một tôn giáo, một nền văn minh, một Thế giới Tinh thần của Hegel (hay của Phật giáo); những thực thể mà sự nghiệp hay những hiển hiện của những thực thể ấy trên trái đất là đối tượng của những tra vấn thường nghiệm hay tra vấn siêu hình, tùy thuộc vào vũ trụ quan của những nhà tư tưởng riêng biệt.

Những người thiên về loại diễn giải khách quan biến đổi lịch sử, dù là vì họ tin rằng diễn giải ấy có giá trị khoa học lớn hơn (tức là có thể giúp họ tiên đoán tương lai hay “suy đoán ngược lại” quá khứ thành công hơn hay chính xác hơn), hoặc là vì họ tin rằng nó chứa đựng một thấu hiểu cốt yếu nào đó về bản chất của vũ trụ, [những người này] bị loại diễn giải ấy bó buộc phải truy nguyên trách nhiệm tối hậu về những gì xảy ra cho những hành động hay hành vi của những thực thể khách quan, hoặc những thực thể “xuyên cá nhân”, hay “siêu cá nhân” hay những “sức mạnh” mà sự tiến hóa của chúng được đồng nhất với lịch sử nhân loại. Quả thực là những người thận trọng và sáng suốt hơn trong số các lí thuyết gia như thế đều cố đáp lại những người phê phán có đầu óc thường nghiệm bằng cách bổ sung vào một chú giải hay một phần thêm vào sau đó, rằng dù thuật ngữ của họ có là gì đi nữa, thì họ cũng không hề tin rằng những tạo vật như là các nền văn minh hay các chủng tộc hay các tinh thần dân tộc lại tồn tại theo nghĩa đen bên cạnh những cá nhân hợp thành những tạo vật ấy; và họ nói thêm rằng họ ý thức đầy đủ rằng mọi định chế “phân tích cho đến cùng” đều bao gồm những cá nhân đàn ông và đàn bà, và những tổ chức rộng lớn ấy tự thân chúng không phải là những nhân vật, mà chỉ là những công cụ tiện lợi - những mô hình lí tưởng hóa, hay mẫu hình, hay những nhãn hiệu được dán vào, hay những ẩn dụ - là những cách thức khác nhau để phân loại, xếp thành nhóm, giải thích hay tiên đoán những tính chất hay hành vi của những con người cá nhân dưới dạng thức những đặc trưng thường nghiệm quan trọng hơn (tức là, hiệu quả hơn về phương diện lịch sử). Mặc dù vậy, những lời cam đoan ấy rất thường xuyên chỉ là lời đãi bôi cho những nguyên lí mà những người rao giảng chúng thực ra chẳng hề tin vào. Những người viết như vậy ít khi viết hoặc suy nghĩ tựa hồ như họ xem những điều kiện rào đón giải lạm phát ấy là quá nghiêm chỉnh; những người thật thà hay ngây thơ hơn trong số họ thậm chí còn không tỏ vẻ đồng tình với chúng. Các quốc gia hay các nền văn hóa hay các nền văn minh đối với Schelling hay Hegel (và Spengler; người ta cũng nghiêng về ý kiến, tuy hơi do dự, muốn bổ sung thêm cả Toynbee nữa) chắc không đơn thuần chỉ là những thuật ngữ tiện lợi mang tính tập thể để chỉ những cá nhân có những đặc trưng chung nhất định, mà chúng có vẻ như “hiện thực” hơn và “cụ thể” hơn là những cá nhân hợp thành chúng. Các cá nhân vẫn là “trừu tượng”, thật chính xác vì họ chỉ đơn thuần là những “phần tử” hay “phương diện”, “những giây lát nhất thời” được trừu tượng hóa một cách giả tạo vì những mục tiêu tùy theo tình hình (ad hoc) và theo nghĩa đen không có hiện thực (hoặc ít ra không là hữu thể “lịch sử” hay “triết học” hay “hiện thực”) nếu tách khỏi những cái toàn thể mà họ tạo thành một bộ phận, tựa như màu sac của đồ vật, hay hình dạng của nó, hay giá trị của nó là những “yếu tố hay những “thuộc tính” hay những “phương thức” hay những “phương diện” của những đối tượng cụ thể - được cô lập vì tiện lợi, chỉ vì yếu kém hay lẫn lộn trong trí tuệ phân tích mới tưởng như chúng tồn tại độc lập, tự thân, mà thôi.

Marx và những nhà Marxist còn nhập nhằng hơn nữa. Chúng ta không thể hoàn toàn chắc chắn điều gì khiến cho cái phạm trù như một “giai cấp” xã hội mà sự trỗi dậy và những cuộc đấu tranh, những chiến thắng và chiến bại của nó lại quyết định cuộc sống của những cá nhân, [cái “giai cấp”] đôi khi chống lại, nhưng phần nhiều là độc lập với những mục tiêu có ý thức cá nhân hay được cá nhân thể hiện. Các giai cấp chưa bao giờ bộc lộ ra như những thực thể độc lập theo nghĩa đen: chúng được cấu thành bởi các cá nhân trong môi tương tác (chủ yếu là kinh tế) của họ. Ấy vậy mà tìm kiếm giải thích, hoặc áp đặt một giá trị đạo đức hay chính trị, cho những hành động của các cá nhân bằng cách khảo sát từng người những cá nhân như thế, ngay chỉ ở mức độ giới hạn trong phạm vi việc khảo sát là khả dĩ, lại bị những nhà Marxist không những xem là chuyện không thực tế và phí thời gian (mà quả thực có thể là vậy thật), mà còn là chuyện ngu ngốc trong một ý nghĩa cơ bản hơn - bởi vì những nguyên nhân “đích thực” (hay “sâu sắc hơn”) của hành vi con người không nằm ở những tình huống đặc thù của một đời sống cá nhân hoặc ở những tư tưởng hay ý muốn của cá nhân (như một nhà tâm lí học hay nhà viết tiểu sử hay nhà viết tiểu thuyết có thể mô tả chúng), mà nằm ở mối quan hệ qua lại tràn lan khắp nơi giữa sự đa dạng rộng lớn của những đời sống như thế với môi trường tự nhiên cũng như môi trường do con người tạo nên. Người ta hành xử như người ta vẫn hành xử và suy nghĩ như người ta vẫn suy nghĩ, đa phần như một “chức năng” của sự tiến hóa tất yếu của “giai cấp” như một toàn thể - từ đó suy ra rằng lịch sử và sự phát triển của các giai cấp có thể được nghiên cứu một cách độc lập với các tiểu sử của các cá nhân là thành phần của chúng. Chính “cấu trúc” và “sự tiến hóa” của giai cấp, chỉ riêng chúng mà thôi, mới là quan trọng (về mặt nhân quả) trong kết cuộc. Với những thay đổi tương ứng thích hợp (mutatis mutandis) điều này thật tương tự với niềm tin vào vị trí vượt trội của những khuôn mẫu tập thể, - niềm tin được duy trì bởi những người gán cho chủng tộc hay nền văn hóa những tính chất tích cực, bất kể họ là những nhà quốc tế chủ nghĩa đầy bác ái như Herder, người cho rằng các dân tộc khác nhau có thể và cần phải kính trọng, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau như những cá nhân có thể và vẫn làm như thế, bởi vì rằng các dân tộc trong ý nghĩa nào đó là những cá nhân (hay là siêu cá nhân); hoặc họ là những kẻ tranh đấu đầy hung bạo cho sự tự khẳng định chủng tộc hay quốc gia và cổ vũ cho chiến tranh, như Gobineau hay Houston Stewart Chamberlain69 hay Hitler. Cùng một sự lưu ý như thế, đôi khi hòa nhã và văn minh, đôi khi thô bạo hung hăng, ta được nghe thấy trong tiếng nói của tất cả những ủng hộ viên ấy cho những huyền thoại tập thể, những người kêu gọi cá nhân hướng đến truyền thống, hướng đến ý thức tập thể (hoặc “vô thức”) của một chủng tộc, một quốc gia hay một nền văn hóa, hoặc như Carlyle, cảm thấy rằng tên gọi trừu tượng xứng đáng được viết hoa và nói với chúng ta rằng Truyền thống hay Lịch sử (hay “quá khứ”, hay các chủng loài, hay “khối quần chúng”) đều sáng suốt hơn chúng ta, hay nói rằng xã hội vĩ đại của người sống cũng như người đã chết, của tổ tiên chúng ta và của những thế hệ còn chưa sinh ra, xã hội vĩ đại ấy có những mục đích rộng lớn hơn bất cứ sinh linh đơn lẻ nào, so với những mục đích ấy thì cuộc sống của chúng ta chỉ là một mẩu nhỏ, và rằng chúng ta thuộc về cái thống nhất rộng lớn hơn ấy với những phần ý thức “sâu sắc nhất” và có lẽ nhỏ bé nhất của chúng ta70. 

Có nhiều phiên bản của niềm tin này, với những tỉ lệ khác nhau của thường nghiệm luận và huyền thoại hóa, của tâm tính “nhân hậu” - và “hung bạo”, của lạc quan và bi quan, của chủ nghĩa tập thể và cá nhân luận; thế nhưng các quan điểm như thế có một điểm chung là đều dựa trên một sự phân biệt căn bản, ấy là phân biệt giữa một bên là những phán xét “hiện thực” và “khách quan” và bên kia là những phán xét “chủ quan” và “tùy tiện”, căn cứ vào việc chấp nhận hay bác bỏ tác động tối hậu huyền bí của việc tự đồng nhất hóa với cái hiện thực siêu việt vượt trên trải nghiệm thường nghiệm.

Đối với Bossuet71, đối với Hegel, đối với Marx72, đối với Spengler (cũng như đối với hầu hết các nhà tư tưởng cho rằng lịch sử là thứ gì đó “nhiều hơn” là các sự kiện trong quá khứ, được mệnh danh là biện thần luận (theodicy)), hiện thực ấy có hình thức một cuộc “hành tiến của lịch sử”. Tiến trình có thể được suy tưởng như diễn ra trong thời gian và không gian hoặc bên ngoài không-thời gian; như chuyển động theo chu kì hay chuyển động theo đường xoắn ốc hay theo đường thẳng, hay theo hình dạng ngoằn ngoèo đặc thù, đôi khi được gọi là mang tính biện chứng; như diễn ra liên tục và đồng đều, hay thất thường bị đứt quãng bởi những bước nhảy vọt đột ngột chuyển lên những “trình độ mới”; hay do sự thay đổi hình thức của một “sức mạnh” đơn nhất, hay do những phần tử xung đột nhau bị nhốt lại (như một huyền thoại cổ nào đó) trong một cuộc đấu tranh vĩnh cửu kiểu Pyrros73; như lịch sử của một thần linh hay “sức mạnh” hay “nguyên lí” hay của nhiều thứ đó; như là định mệnh phải kết thúc tốt hay xấu; như giấu giếm với con người viễn cảnh của một phúc lớn vĩnh cửu hay sự nguyền rủa vĩnh cửu hay lần lượt cả hai hay chẳng có cái nào. Nhưng dù có chấp nhận phiên bản nào của câu chuyện thì nó cũng không bao giờ mang tính khoa học cả, tức là như một lí thuyết có thể kiểm nghiệm, được trình bày dưới dạng thức định lượng, còn kém hơn cả một mô tả lại những gì tai nghe mắt thấy - bài học của nó lúc nào cũng chi có cùng một thứ: ấy là chúng ta phải học cách phân biệt chiều hướng “hiện thực” với những mơ mộng và điều tưởng tượng và những “duy lí hóa” mà chúng ta tạo dựng một cách vô thức nhằm an ủi hay giải trí; vì rằng những thứ đó có thể an ủi ta trong chốc lát, nhưng rốt cuộc sẽ phản bội lại ta thật tàn nhẫn. Chúng ta được bảo rằng có một bản chất của các sự vật và bản chất ấy có khuôn mẫu trong thời gian. Một triết gia tỉnh táo người Anh hơn hai thế kỉ trước đã nói: “Các sự vật và hành động là những gì chúng là thế, và những hậu quả của chúng sẽ là những gì chúng sẽ là: vậy tại sao chúng ta lại cứ thích bị lừa dối nhỉ?”.74

Vậy chúng ta phải làm gì để tránh bị lừa dối? Ít nhất - nếu chúng ta không nuốt trôi được ý niệm về những “tinh thần” hay “sức mạnh” siêu cá nhân - chúng ta đành phải thú nhận rằng mọi sự kiện đều xảy ra trong những khuôn mẫu giống như nhau, không cải biến được, không thể khám phá được; vì rằng nếu một số sự kiện không như thế, thì bằng cách nào chúng ta có thể tìm thấy những quy luật của những điều xảy ra như thế? - bằng cách nào lịch sử lại có thể “dễ hiểu” được? Làm sao lịch sử lại có thể “hợp lí”, “có ý nghĩa”, là thứ gì đó hơn là một bản tường thuật kể chuyện phiêu lưu về một chuỗi liên tiếp các tình tiết tình cờ, một bộ sưu tập đơn thuần những chuyện ngồi lê đôi mách của các mụ vợ già (như Descartes vì chính lí do này hình như đã cho là như vậy)? Những giá trị của chúng ta - những gì chúng ta cho là tốt và xấu, quan trọng và tầm thường, đúng và sai, cao quý và đáng khinh - tất cả những thứ này được quy định bởi vị trí mà chúng ta chiếm trong khuôn mẫu, trên cầu thang đang dịch chuyển. Chúng ta ca ngợi và chê trách, sùng bái và lên án bất cứ thứ gì phù hợp hay không phù hợp với những lợi ích, những nhu cầu và những lí tưởng mà chúng ta tìm cách thỏa mãn - những mục đích mà chúng ta (được tạo thành như chúng ta hiện hữu) không thể ngừng theo đuổi - tùy theo hiểu biết của chúng ta, tức là sự tri giác của bản thân chúng ta về tình cảnh của chúng ta, về vị trí của chúng ta trong “Tự nhiên”. Những thái độ như thế được xem là hợp lí” và “khách quan” ở mức độ mà chúng ta tri giác được tình cảnh ấy một cách đúng đắn, tức là hiểu được chúng ta đang ở chỗ nào dưới dạng thức của một bản kế hoạch thế giới vĩ đại, của sự vận động mà những quy củ của nó chúng ta ít nhiều nhận ra được trong mức độ tùy theo khả năng nhận biết lịch sử của chúng ta và tri thức của chúng ta cho phép. Mỗi tình cảnh và mỗi thế hệ có những viễn cảnh riêng về quá khứ và tương lai phụ thuộc vào nơi chốn nó đã đi đến, những gì nó đã bỏ lại phía sau, liệu nó có đang vận động hay không; những giá trị của nó phụ thuộc vào chính sự nhận biết ấy. Lên án những người Hi Lạp hay những người La Mã hay những ngươi Assyry hoặc Aztecs vì điều điên rồ này hay tật xấu kia, có thể cũng chẳng hơn gì việc nói rằng những gì họ đã làm, đã mong muốn hay đã suy nghĩ, đang xung đột với quan điểm của riêng chúng ta về cuộc sống, là quan điểm có thể đúng đắn hay “khách quan” cho giai đoạn chúng ta đã đạt tới và quan điểm ấy được tri giác ít nhiều sáng tỏ tùy theo độ sâu và độ chính xác nơi sự hiểu biết của chúng ta về giai đoạn ấy là gì và nó đang phát triển theo cách thức nào. Nếu những người La Mã hay Aztecs đã phán xét khác với chúng ta thì có thể họ đã phán xét không kém phần đúng đắn và “khách quan” ở mức độ mà họ đã hiểu tình cảnh của riêng họ cũng như giai đoạn phát triển rất khác của riêng họ. Đối với chúng ta việc lên án thang bậc giá trị của họ là đủ hợp thức với tình cảnh của chúng ta, vốn là hệ quy chiếu duy nhất mà chúng ta có. Và nếu giả sử như họ biết chúng ta, thì họ cũng có thể đã lên án chúng ta thật gay gắt như thế, bởi những hoàn cảnh và giá trị của họ đã là những gì tất yếu phải như thế với tính hợp thức ngang bằng.

Theo quan điểm này thì không có gì, không có điểm nào tình tại ở bên ngoài sự vận động phổ quát để chúng ta hay là họ có thể đứng vào, không có những tiêu chuẩn tuyệt đối tính tại để dựa vào đó mà đánh giá các sự vật và các cá nhân một cách tối hậu. Vì vậy mà những thái độ ấy bị mô tả một cách chính xác nhất và bị lên án một cách hợp lẽ nhất như là tương đối luận, chủ quan và phi lí tính, là những hình thức thất bại trong việc liên kết phán xét của chúng ta với những lợi ích đích thực nhất của chính chúng ta, tức là với những gì đáp ứng đầy đủ nhất bản chất của chúng ta - tất cả những gì mà bước phát triển tiếp theo nhất thiết bảo tồn trong sự phát triển tất yếu của chúng ta. Một số nhà tư tưởng của trường phái [phê phán] này xem những sai lệch mang tính chủ quan với tấm lòng trắc ẩn và tha thứ, xem chúng như những thái độ nhất thời mà sự khai sáng trong tương lai sẽ giữ cho loài người không phạm vào nữa. Những nhà tư tưởng khác lấy làm hả hê hoan hỉ hay chua chát trước ngày tận số của những kẻ diễn giải sai và do vậy mà nhất định sẽ va chạm với cuộc hành tiến không thể lay chuyển được của các sự kiện. Thế nhưng dù giọng điệu có là nhân từ hay cay độc, dù người ta có lên án những lầm lỗi của các cá nhân ngớ ngẩn hay của đám đông mù quáng, hay tán thưởng sự tiêu vong của họ, thì thái độ ấy cũng dựa trên niềm tin rằng duyên do mọi chuyện xảy ra như đã xảy ra là do bản thân cỗ máy lịch sử tạo nên - bởi các sức mạnh khách quan của giai cấp, chủng tộc, nền văn hóa, Lịch sử, Lí trí, Sức mạnh-Cuộc sống, Tiến bộ, Tinh thần của Thời đại. Xem xét sự tổ chức ấy cho đời sống của chúng ta, là cái tổ chức chúng ta không hề tạo ra và không thể biến cải nó, thì cái tổ chức ấy, chỉ duy nhất nó thôi, phải chịu trách nhiệm tối hậu về mọi thứ. Chê trách hay ca ngợi các cá nhân hay các nhóm người do hành động đúng hay sai, với hàm ý giả định rằng theo một nghĩa nào đó họ thực sự được tự do lựa chọn giữa những khả năng khác nhau, và do vậy mà bị chê trách hay được ca ngợi một cách đúng đắn và hợp lẽ vì họ đã chọn và đang chọn như vậy; việc chê trách hay ca ngợi như thế là chuyện ngớ ngẩn ghê gớm, một sự quay về ý niệm thô thiển và ngây thơ nào đó về con người như những hữu thể có khả năng né tránh được tác động của những sức mạnh tự nhiên và siêu tự nhiên quyết định về đại thể cuộc đời của họ, một sự tái phát thuyết vật linh ấu trĩ mà việc nghiên cứu hệ thống mang tính khoa học hay siêu hình thích đáng ắt sẽ nhanh chóng dẹp tan. Bởi nếu giả sử những lựa chọn ấy là hiện thực, thì theo quan điểm này cái cấu trúc thế giới được xác định, mà chỉ riêng nó tạo nên lời giải thích đầy đủ xem liệu khoa học hay siêu hình học là khả dĩ, [cấu trúc thế giới ấy] ắt có thể không tồn tại. Điều này phải bị loại trừ như chuyện không thể tưởng tượng nổi, “lí trí bác bỏ nó”, điều này là lộn xộn, hão huyền, nông cạn, một thứ hoang tưởng ấu trĩ, mang tính chất tiền khoa học, không xứng đáng với những người văn minh.

Ý niệm cho rằng lịch sử tuân theo các quy luật, dù là quy luật tự nhiên hay siêu tự nhiên, rằng mỗi sự kiện trong đời người là một yếu tố trong một khuôn mẫu tất yếu, [ý niệm này] có những nguồn gốc siêu hình sâu xa: niềm say mê với các khoa học tự nhiên nuôi dưỡng dòng suối này, nhưng nó không phải là suối nguồn duy nhất, hay thực ra không phải là suối nguồn chính yếu. Vị trí hàng đầu là quan điểm thần học mà cội rễ của nó đã có từ xưa vào cái thời khởi đầu của tư tưởng con người. Nó có ở trong nhiều phiên bản, nhưng điểm chung của tất cả các phiên bản ấy là niềm tin rằng, những con người, và tất cả các sinh linh và có thể cả các vật vô tri giác nữa, không đơn thuần chỉ là những gì chúng đang là, mà đều có chức năng và theo đuổi các mục đích. Những mục đích ấy hoặc là do một đấng sáng thế áp đặt cho chúng, đấng sáng thế ấy tạo ra mỗi người và mỗi vật nhằm phục vụ cho một mục tiêu đặc thù; hoặc giả những mục đích ấy thực ra không phải do đấng sáng thế áp đặt, mà là mang tính nội tại của những thực thể sở hữu các mục đích ấy, cho nên mỗi thực thể có một “bản chất” và theo đuổi một mục tiêu đặc thù vốn mang tính “bản chất” của nó, và thước đo tính hoàn hảo của nó bao gồm mức độ mà nó hoàn tất mục tiêu. Điều ác, tật xấu, tính không hoàn hảo, mọi hình thức của hỗn loạn và sai lầm, theo quan điểm này đều là những hình thức của sự nản lòng, những nỗ lực bị ngăn trở khi tiến đến những mục tiêu ấy, những thất bại do số phận không may đặt những vật chướng ngại trên con đường tự thể hiện mình, hay là những mưu toan đánh lạc hướng nhằm hoàn tất mục tiêu nào đó không phải thuộc ‘bản chất” của thực thể được xem xét.

Trong vũ trụ luận này thế giới của con người (và trong một số phiên bản, toàn thể hoàn vũ) là một hệ thống cấp bậc đơn nhất bao trùm hết thảy; khiến cho việc giải thích tại sao mỗi thành phần của nó lại như thế, và nó là thế ở đâu, khi nào, tại sao nó làm cái điều nó làm, thì thực chất cũng y hệt như (eo ipso) nói mục tiêu của nó là gì, nó hoàn tất mục tiêu thành công đến đâu và những quan hệ của sự phối hợp và hỗ trợ giữa những mục tiêu của những thực thể theo đuổi những mục tiêu khác nhau trong cái hình chóp hài hòa mà chúng tạo nên một cách tập thể, [những quan hệ ấy] là gì. Nếu chuyện này là bức tranh chân thực của hiện thực, thì việc giải thích lịch sử, giống như mọi hình thức giải thích khác, trước hết phải bao gồm việc quy định chỗ đứng thích đáng trong khuôn mẫu hoàn vũ cho các cá nhân, các nhóm người, các quốc gia, các chủng loài. Biết được chỗ đứng “vũ trụ” của một vật hay một cá nhân tức là nói rằng nó là gì và làm gì, và đồng thời cũng nói được tại sao nó phải là và phải làm như nó đang là và đang làm. Như vậy thì hiện hữu và có giá trị, tồn tại và có một chức năng (và hoàn tất nó thành công ít hay nhiều) đều cùng là một thứ cả. Khuôn mẫu, và chỉ riêng nó thôi, đem đến hiện hữu, gây ra cái chết và ban cho mục đích, cũng tức là nói ban cho giá trị và ý nghĩa, cho tất cả những gì đang hiện hữu. Hiểu được tức là tri giác được các khuôn mẫu. Đưa ra những giải thích lịch sử không phải chỉ là đơn thuần mô tả một chuỗi các biến cố, mà là làm cho nó có thể hiểu được; làm cho nó có thể hiểu được nghĩa là phát hiện ra cái khuôn mẫu cơ sở - không phải là một trong những khuôn mẫu khả dĩ, mà là một khuôn mẫu độc nhất, bằng cách hiện hữu như nó đang hiện hữu, khuôn mẫu ấy hoàn tất một mục đích đặc thù, và hệ quả là nó được phát hiện như thích đáng theo một cách thức đặc biệt trong phạm vi một sơ đồ “vũ trụ” bao quát duy nhất, vốn là mục đích của hoàn vũ, mục đích mà trong tư cách của chỉ riêng mình nó, khiến cho nó là một hoàn vũ chứ không phải là một mớ hỗn độn các mảnh, mẩu không liên hệ với nhau. Hiểu được bản chất của mục đích càng thấu đáo và cùng với nó là cái khuôn mẫu mà nó hàm ý trong những hình thức đa dạng hoạt động tích cực của con người, thì hoạt động tích cực của nhà sử học sẽ càng có sức mạnh giải thích hay soi sáng nhiều hơn - sâu sắc hơn. Sẽ chẳng có sự giải thích nào - tức là do vậy mà chẳng có tường thuật lịch sử nào - được đảm bảo cả, trừ phi một sự kiện, hay tính cách của một cá nhân, hay tính tích cực của định chế này hay của nhóm người kia hay của nhân vật lịch sử nọ, được giải thích như một hệ quả tất yếu chỗ đứng của nó trong khuôn mẫu (và sơ đồ càng rộng lớn, tức là càng dễ lĩnh hội được, thì có vẻ như sơ đồ ấy càng đúng đắn hơn). Một sự kiện hay một hành động hay một tính cách có thể được thể hiện ra như nó hiện hữu càng tất yếu, thì nó càng được hiểu rõ hơn, sự thấu suốt của người nghiên cứu càng uyên thâm hơn, chúng ta càng đến gần hơn với một chân lí tối hậu bao trùm hết thảy.

Thái độ này mang tính phản thường nghiệm (anti-empirical) sâu sắc. Chúng ta quy cho tất cả mọi đồ vật và nhân vật những mục đích không phải vì chúng ta có bằng chứng cho giả thuyết này; vì nếu giả sử có vấn đề về bằng chứng cho nó, thì về nguyên tắc ắt có thể có bằng chứng chống lại nó; và như thế thì một số sự vật và sự kiện hóa ra có thể không có mục đích nào trong nghĩa nêu trên, và có thể chúng không có khả năng vừa khớp được vào khuôn mẫu, tức là không có khả năng giải thích được chút nào; nhưng điều này là không thể có và bị bác bỏ ngay từ đầu, một cách tiên nghiệm. Hiển nhiên chúng ta đang xử lí không phải với một lí thuyết thường nghiệm luận, mà với một thái độ siêu hình xem việc giải thích một sự vật - mô tả nó như nó hiện hữu một cách “chân thực”, thậm chí định nghía nó vượt trên cả bằng lời nói ([bằng lời nói] tức là hời hợt nông cạn) - ấy là kham phá mục đích của nó. Về nguyên tắc mọi vật đều khả dĩ giải thích được, bởi mọi vật đều có mục đích, mặc dù đầu óc của chúng ta có thể quá yếu ớt hay quá điên loạn nên đã không thể khám phá được mục đích ấy là gì trong mọi trường hợp được xem xét. Dựa trên quan điểm như vậy thì nói về những đồ vật và nhân vật rằng chúng tồn tại thì cũng tức là nói rằng chúng đang theo đuổi những mục tiêu; nói rằng chúng tồn tại hay là hiện thực, vậy mà thiếu một mục đích trong nghĩa đen, dù là mục đích được áp đặt từ bên ngoài, hay là mục đích “cố hữu” hay “nội tại”, thì cũng tức là nói điều gì đó không sai, nhưng tự mâu thuẫn trong nghĩa đen, nên vì thế mà vô nghĩa. Thần học không phải là một lí thuyết hay một giả thuyết, mà là một phạm trù hay là một khuôn khổ mà trong dạng thức của nó mọi thứ đều quan niệm và mô tả được, hoặc phải là như vậy.

Ảnh hưởng của thái độ này tới việc viết sử, từ sử thi của Gilgamesh75 cho đến những trò chơi thú vị thử thách sự kiên nhẫn mà Arnold Toynbee76 chơi đùa với quá khứ và tương lai của nhân loại - và chơi đùa với tài nghệ và trí tưởng tượng gây hào hứng - thật quá quen thuộc chẳng cần phải nhấn mạnh. Tuy nhiên, một cách vô thức, ảnh hưởng ấy đi vào trong tư duy và ngôn ngữ của những người nói về “sự trỗi dậy” và “sự suy vong” của các Quốc gia hay các phong trào hay các giai cấp hay các cá nhân, cứ tựa hồ như là chúng tuân theo nhip điệu nào đó không thể cưỡng lại, một sự trồi lên sụt xuống của con sóng ở dòng sông vũ trụ nào đó, một đợt thủy triều rút xuống hay dâng lên trong sự nghiệp của con người, đối tượng của các định luật tự nhiên hay siêu tự nhiên; cứ tựa hồ như là một Bản kê khai Vận mệnh áp đặt những quy củ khả dĩ khám phá được lên những cá nhân hay “siêu cá nhân”, cứ tựa hồ như ý kiến cho rằng đời sống là một hò chơi lại là thứ gì đó nhiều hơn một ẩn dụ sinh động77. Đối với những người sử dụng hình tượng này thì lịch sử là một khúc - hay một chuỗi các khúc - đầy bi hài, một kịch bản mà những vị anh hùng và những kẻ bất lương, những kẻ thắng người thua của kịch bản ấy, nói năng theo những vai đóng của mình và chịu những số phận tùy theo văn bản được quan niệm theo ngôn từ của họ, nhưng không phải do họ chủ động; bởi vì nếu không phải thế thì chẳng có gì được quan niệm một cách đúng đắn như là bi hay hài; chẳng có khuôn mẫu nào - chẳng có quy tắc nào - chẳng có giải thích nào. Các nhà sử học, các nhà báo, những người thường đều nói năng theo ngôn từ ấy; chúng đã trở thành một phần chủ yếu của ngôn ngữ đời thường. Tuy nhiên xem những ẩn dụ và những cách diễn đạt ấy như nghĩa đen; tin rằng những khuôn mẫu như thế không phải là được tạo ra, mà là được khám phá hay được nhận ra một cách trực giác, tin rằng chúng không phải chỉ là một vài trong nhiều giai điệu khả dĩ và cũng những âm thanh ấy có thể tiết lộ khả năng âm nhạc, nhưng lại tin chúng là độc nhất vô nhị theo một nghĩa nào đó; cho rằng có tồn tại khuôn mẫu, nhịp điệu cơ bản của lịch sử - một thứ gì đó vừa tạo ra lại vừa biện minh cho mọi thứ hiện hữu - như thế tức là tiếp thu trò chơi quá nghiêm chỉnh, xem nó như chìa khóa mở ra hiện thực. Chắc điều này sẽ đưa bản thân người ta đến quan điểm cho rằng ý kiến về trách nhiệm cá nhân “rốt cuộc” chỉ là một ảo tưởng. Không có nỗ lực khéo léo nào để diễn giải lại sự bày tỏ ý chí bị xáo trộn nhiều ở trong một hệ thống thần học, phục hồi ý nghĩa bình thường của ý kiến về tự do lựa chọn. Những con rối có thể có ý thức và sung sướng tự đồng nhất mình với quá trình tất yếu trong đó chúng đóng vai của mình; thế nhưng điều đó vẫn là tất yếu và chúng vẫn là con rối bù nhìn.

Tất nhiên thần học không phải là siêu hình học duy nhất trong lịch sử, bên cạnh nó vẫn dai dẳng tồn tại một tước vị có vẻ bề ngoài và hiện thực còn nổi tiếng nhiều hơn nữa, nhưng thuộc một loại hơi khác một chút. Đối với nhà tư tưởng thần học mọi tình trạng mất trật tự bề ngoài, thảm họa không thể giải thích nổi, nỗi đau khổ vô cớ, những móc xích không sao hiểu được của những sự kiện tình cờ, [những thứ ấy] đều không do bản chất của sự vật, mà do chúng ta thất bại trong việc khám phá mục đích của chúng. Mọi thứ có vẻ bề ngoài như vô dụng, không hài hòa, tầm thường, khó chịu, độc ác, méo mó đều là cần thiết, nếu giả sử chúng ta biết được, cho sự hài hòa của cái toàn thể mà chỉ có Đấng sáng tạo ra thế giới, hay là bản thân thế giới (nếu nó có thể hiểu được đại thể về bản thân mình và những mục tiêu của mình) có thể biết được mà thôi. Sự thất bại hoàn toàn bị loại trừ một cách tiên nghiệm (a priori), vì ở một trình độ “sâu sắc hơn” thì tất cả mọi quá trình bao giờ cũng sẽ được nhìn nhận là kết thúc thành công; và vì bao giờ cũng phải tồn tại một trình độ “sâu sắc hơn” so với bất cứ sự thấu hiểu nào được xem xét, nên về nguyên tắc không có phép thử thường nghiệm về chuyện thành công hay thất bại “tối hậu” bao gồm những gì. Thần học là một hình thức của đức tin không có khả năng xác nhận hay bác bỏ bằng bất cứ loại trải nghiệm nào; những ý kiến về bằng chứng, chứng minh, xác suất v.v. là không thể áp dụng cho thần học.

Thế nhưng còn có một quan điểm thứ hai, có thời được tôn vinh không kém: theo quan điểm này thì không phải là những mục tiêu ít nhiều được nhận diện, giải thích và biện minh cho những gì xảy ra, mà là một siêu hiện thực thường xuyên, vĩnh hằng, “ở bên trên”, hay “ở bên ngoài”, hay phía sau” luôn luôn hiện hữu như vẫn hằng hiện hữu trong sự hài hòa hoàn hảo, tất yếu, tự thân nó giải thích. Mỗi yếu tố của nó đều tất yếu phải hiện hữu như hiện hữu bởi những quan hệ của nó với những yếu tố khác cũng như với toàn thể. Nếu thế giới có vẻ như không bộc lộ điều này, nếu chúng ta không nhìn thấy những sự kiện và con người thật sự như chúng liên hệ với nhau bởi những mối quan hệ logic tất yếu ấy, là điều khiến cho không thể quan niệm được làm sao mọi thứ lại có thể khác được với cái như nó hiện hữu, nếu như vậy thì chỉ là vì chính cách nhìn của chúng ta thất bại. Chúng ta bị mù quáng bởi sự dốt nát, ngớ ngẩn, say đắm và công việc giải thích trong khoa học hay trong lịch sử là việc cố vạch ra những hỗn loạn biểu hiện ra như là một phản ánh không hoàn hảo cái trật tự hoàn hảo của hiện thực, vì vậy mà lại một lần nữa mọi chuyện vẫn ổn thỏa đâu vào đó. Giải thích là khám phá ra cái khuôn mẫu “làm nền tảng”. Lí tưởng giờ đây không phải là một viễn tượng xa vời vẫy gọi tất cả mọi vật và mọi người hướng tới tự thể hiện, mà là “một cấu trúc của hiện thực” mang tính tự hòa hợp, vĩnh cửu, tối hậu, hiện diện “muôn thuở” như nó vốn thế cùng với thế giói lộn xộn của những trí óc mà nó gieo rắc vào như một hình ảnh bị méo mó hay một cái bóng yếu ớt về nó, đó đồng thời vừa là cội rễ, nguyên nhân, lời giải thích và sự biện minh. Mối quan hệ của hiện thực này với thế giới của những vẻ ngoài tạo thành nội dung nghiên cứu của mọi bộ môn triết học đích thực - của đạo đức học, mĩ học, luận lí học, của triết học hch sử và luật pháp và chính trị học, phù hợp với “phương diện” của mối quan hệ cơ bản, tức là được chọn lọc cho sự chú ý. Tuy nhiên, dưói tất cả nhưng tên gọi khác nhau của nó - hình thức và nội dung, một và nhiều, mục đích và phương tiện, chủ thể và khách thể, trật tự và hỗn loạn thay đổi và tính tại, cái hoàn hảo và cái không hoàn hảo, cái tự nhiên và cái giả tạo, tự nhiên và tinh thần - thì vấn đề trung tâm, tức là Hiện thực và vẻ ngoài, vẫn chỉ là cùng một thứ. Hiểu thật đúng tức là hiểu được nó và chỉ riêng nó mà thôi. Nó đóng vai trò giống như ý kiến về chức năng và mục đích trong thần học. Chỉ có nó duy nhất đồng thời vừa giải thích vừa biện minh.

Cuối cùng ở đây có ảnh hưởng của các khoa học tự nhiên. Thoạt nhìn điều này có vẻ là nghịch lí: phương pháp khoa học chắc chắn phải chính là sự phủ định suy đoán siêu hình học. Thế nhưng về mặt lịch sử cái này lại đan bện chặt với cái kia, và trong lĩnh vực mà tôi đang đề cập tới, nó chứng tỏ những nét tương đồng thật quan trọng, ấy là ý kiến cho rằng mọi thứ tồn tại tất yếu là đối tượng có bản thể vật chất, do đó mà có khả năng giải thích được bằng các định luật khoa học. Nếu như Newton đã có thể giải thích về nguyên tắc mọi chuyên động của mọi thành phần đặc thù có bản chất vật lí dưới dạng thức của một số ít các định luật có độ khái quát lớn, liệu chẳng phải là hợp lí hay sao khi giả định rằng những sự kiện tâm lí cấu thành đời sống ý thức và vô thức của các cá nhân cũng như là các sự kiện xã hội - những mối quan hệ nội tại, và các hoạt động, và các “trải nghiệm” của các xã hội - cũng có thể được giải thích bằng cách sử dụng những phương pháp tương tự? Đúng là chúng ta có vẻ như còn ít biết về nội dung nghiên cứu của môn tâm lí học và xã hội học, ít hơn so với hiểu biết về các sự kiện mà môn vật lí học và hóa học xử lí; thế nhưng liệu ở đây có chăng sự phản đối về nguyên tắc đối với quan điểm cho rằng một nghiên cứu thật cẩn thận tỉ mỉ và giàu tưởng tượng về con người một ngày nào đó sẽ khám phá ra những định luật khả dĩ đem lại những tiên đoán cũng đầy sức thuyết phục và chính xác như những định luật hiện nay đang là khả dĩ trong các khoa học tự nhiên? Nếu tâm lí học và xã hội học lúc nào đó đạt tới tầm cỡ đích thực của mình - tại sao lại không kia chứ? - chúng ta sẽ có được những định luật cho phép chúng ta, ít nhất cũng trong lí thuyết (vì có thể còn khó áp dụng vào thực tiễn), tiên đoán được (hay xây dựng lại) mỗi chi tiết trong đời sống của mỗi cá nhân đơn lẻ trong tương lai, hiện tại và quá khứ. Nếu điều này là (chắc hẳn là vậy) lí tưởng lí thuyết của những khoa học như tâm lí học, xã hội học, và nhân học, thì những giải thích lịch sử, nếu như chúng thành công, sẽ đơn giản chỉ bao gồm việc áp dụng những định luật - những giả thuyết được thiết lập - của những khoa học ấy cho những tình huống cá nhân đặc biệt. Có thể sẽ có tâm lí học, xã hội học, lịch sử “thuần túy”, tức là bản thân các nguyên lí; rồi sẽ có những “ứng dụng” của chúng: sẽ xuất hiện những môn toán học về xã hội, vật lí về xã hội, kĩ thuật về xã hội, “tâm lí học” của mọi thứ có cảm xúc và thái độ và thiên hướng, cũng chính xác và đầy sức thuyết phục như những môn nền tảng của chúng trong các khoa học tự nhiên. Và quả thực đây chính là kiểu sắp xếp ngôn từ và lí tưởng của những nhà theo chủ nghĩa duy lí ở thế kỉ 18 như Holbach78, d’Alembert và Condorcet. Các nhà siêu hình là nạn nhân của một ảo tưởng; chẳng có gì là siêu việt trong tự nhiên cả, chẳng có gì là có tính mục đích (purposive) cả; mọi thứ đều có thể đo lường được; rồi sẽ đến cái ngày chúng ta có thể nói cùng với Leibniz, “tính toán xem” (“calculemus”)79, rồi trả về những lời giải đáp thật rõ ràng, chính xác và xác chứng.

Tất cả những khái niệm ấy - siêu hình học và có vẻ khoa học - đều có chung một ý (bất chấp ngay cả những khác biệt to lớn của chúng), ấy là cho rằng giải thích có nghĩa là xếp loại dưới một công thức tổng quát, trình bày như những ví dụ của các định luật bao hàm một số vô hạn các trường hợp; vậy nên với tri thức về tất cả những định luật liên quan, và về một phạm vi đủ rộng những sự kiện liên quan, thì sẽ có thể biết chắc được không chỉ đơn thuần những gì xảy ra, mà còn biết được tại sao chúng xảy ra; vì rằng, nếu những định luật đã được thiết lập đúng đắn, thì mô tả một cái gì đó hiện hữu thực ra cũng là khẳng định rằng nó không thể xảy ra khác được. Câu hỏi “Tại sao?” đối với những nhà thần luận có nghĩa “Đang theo đuổi mục tiêu không thể thay đổi nào?”; đối với những nhà “hiện thực luận” siêu hình phi-thần học thì nó có nghĩa “Được xác định không thể thay đổi bởi khuôn mẫu tối hậu nào?”; còn đối với những người ủng hộ những lí tưởng của Comte về tính học và động học xã hội thì nó có nghĩa “Do kết quả từ những nguyên nhân nào?” - những nguyên nhân thật sự, hiện hữu như chúng hiện hữu, dù cho những nguyên nhân ấy có thể hay không thể là khác được. Tính tất yếu của những quá trình lịch sử, của những xu hướng, của “những trỗi dậy” hay “những suy vong” chỉ đơn thuần là theo thực tế (de facto) đối vớỉ những ai tin rằng vũ trụ tuân theo chỉ riêng “những định luật tự nhiên” khiến cho nó là như thế; nó cũng là theo luật định (de jure) nữa - vừa là biện minh vừa là giải thích - đối với những ai nhìn thấy tính thống nhất như thế không đơn thuần chỉ là một thứ gì đó có sẵn, một thực tại tàn nhẫn, một thứ gì đó không thể thay đổi và bất khả tra vấn, mà còn như những khuôn mẫu, những kế hoạch, những mục đích, những lí tưởng, như là những suy nghĩ trong đầu óc của một Thượng Đế duy lí hay của Lí trí Hoàn vũ, như là những mục tiêu, như là những toàn thể mang tính thẩm mĩ tự thực hiện, như là những lí do căn bản siêu hình, những biện minh phi-trần thế mang tính thần luận, như những biện thần luận thỏa mãn khao khát biết được không chỉ tại sao thế giới tồn tại, mà còn tại sao nó xứng đáng tồn tại; và tại sao cái thế giới đặc thù này lại tồn tại chứ không phải một vài thế giới nào khác, hay chẳng có thế giới nào khác cả; lời giải được đưa ra dưới dạng thức những giá trị hoặc là đã “ăn sâu” vào bản thân những sự kiện, hoặc là xác định các sự kiện từ một độ cao hay độ sâu “siêu việt” nào đó. Tất cả những lí thuyết ấy, theo nghĩa này hay nghĩa khác, hình thành nên tất định luận, dù chúng có là thần luận, siêu hình, cơ giới, tôn giáo, mĩ học hay khoa học. Một đặc trưng chung của tất cà những quan điểm ấy là ẩn ý cho rằng tự do lựa chọn của cá nhân (ít ra cũng như ở dưới đây) về căn bản là một ảo tưởng, là ấn ý xem ý niệm cho rằng con người có thể đã lựa chọn khác đi với điều họ đã chọn, thường chỉ là ý niệm dựa trên sự vô minh về các sự kiện; với hệ lụy là ẩn ý cho rằng việc khẳng định giá như họ đã hành động thế này hay thế nọ, thì hẳn là họ đã có thể tránh khỏi điều này điều kia, nên xứng đáng (không chỉ đơn thuần moi móc hay phản ứng lại) được ca ngợi hay bị chê trách, tán thưởng hay lên án, [việc khẳng định như thế] dựa trên tiền giả định rằng có phạm vi nào đó trong đời sống của họ không hoàn toàn là tất định bởi các định luật, dù là định luật siêu hình hay thần luận hay định luật biểu lộ những xác suất khái quát của các khoa học. Rồi xác nhận rằng điều giả định ấy rõ ràng là sai. Sự tiến bộ của tri thức thường xuyên mang tới những lĩnh vực mới của trải nghiệm dưới sự thống trị của các định luật, những định luật khiến cho việc suy diễn và tiên đoán một cách hệ thống trở nên khả dĩ. Cho nên nếu chúng ta hướng tới lí trí, chúng ta có thể ca ngợi hay lên án, cảnh báo hay khuyến khích, biện hộ cho công lí hay cho tư lợi, tha thứ, bỏ qua, đưa ra nghị quyết, ban hành trật tự, cảm thấy nỗi ân hận, chúng ta được biện bạch chỉ tới mức độ mà chúng ta vẫn còn ở trong tình trạng vô minh về bản chất đích thực của thế giới. Chúng ta càng biết nhiều hơn thì phạm vi của tự do cho con người lại càng hẹp đi, cũng như trách nhiệm cũng hẹp đi theo hệ quả. Đối với hữu thể toàn thực, là hữu thể nhìn ra được tại sao không một thứ gì có thể khác với những gì như nó hiện hữu, thì những ý kiến về trách nhiệm hay tội lỗi, về đúng và sai, tất phải là trống rỗng; chúng đơn thuần chỉ là thước đo độ vô minh, ảo tưởng của thời niên thiếu; việc tri giác được điều này là dấu hiệu đầu tiên của sự trưởng thành đạo đức và trí tuệ.

Học thuyết này có nhiều hình thức. Có những người tin rằng phán xét đạo đức là không có cơ sở bởi vì chúng ta biết quá nhiều, và có những người tin rằng phán xét đạo đức là không biện minh được vì chúng ta biết quá ít. Và lại một lần nữa, trong số người thứ nhất có những người mà tất định luận của họ mang tính lạc quan và nhân đức, cũng như những người mà tất định luận của họ là bi quan, hoặc giả tin vào hồi kết có hậu nhưng đồng thời vẫn tỏ ra hiểm ác đầy giận dữ hay đầy nhạo báng. Một số người nhìn vào lịch sử để tìm sự cứu rỗi; một số người khác nhằm tìm sự công bằng; tìm sự trả thù; tìm sự tiêu hủy. Trong số những người lạc quan có những người theo chủ nghĩa duy lí đầy tự tin, đặc biệt là những người báo tin và những nhà tiên tri (từ Bacon cho đến những nhà lí thuyết xã hội học đương đại) về các khoa học tự nhiên và về tiến bộ vật chất, là những người chủ trương rằng đau khổ và tệ nạn xã hội rốt cuộc luôn là sản phẩm của sự ngu dốt. Cơ sở cho đức tin của họ là niềm tin chắc rằng có khả năng sẽ tìm ra được cái gì là điều tất cả mọi người thuộc mọi thời đại thực sự mong muốn; và cả chuyện họ có thể làm được gì và cái gì là vĩnh viễn nằm ngoài quyền lực của họ; rồi dưới ánh sáng của chuyện này mà sẽ sáng tạo, khám phá, cải biên các phương tiện cho những mục đích khả thi. Điều xấu xa và khốn khổ, điên rồ và tật xấu, các khuyết tật đạo đức và trí tuệ đều là do không thích nghi được. Hiểu được bản chất của sự vật chính là (ít nhất cũng là) biết được rằng anh (và những ngươi khác giống như anh, nếu họ là người) thực sự mong muốn gì và làm thế nào để đạt được nó. Mọi thứ xấu xa đều là do vô minh về mục đích hay phương tiện; đạt được tri thức về cả hai chuyện này là mục đích và chức năng của các khoa học. Các khoa học sẽ tiến bộ; những mục đích đích thực cũng như những phương tiện hiệu quả sẽ được khám phá; tri thức sẽ gia tăng, con người sẽ biết được nhiều hơn, nên do vậy mà sẽ sáng suốt hơn, tốt đẹp hơn và hạnh phúc hơn. Condorcet, mà tác phẩm Phác thảo (Esquisse) của ông là lời phát biểu đơn giản nhất và cảm động nhất về niềm tin này, [ông] đã tin chắc rằng hạnh phúc, tri thức khoa học, đức hạnh và tự do gắn bó với nhau như bởi “một xiềng xích không gì gỡ nổi”80, trong khi đó sự ngu tối, tật xấu, bất công và bất hạnh là những hình thức của bệnh hoạn mà sự tiến bộ của khoa học sẽ loại bỏ vĩnh viễn; vì chúng ta được tạo nên như chúng ta đang là, bởi những nguyên nhân tự nhiên; một khi chúng ta hiểu được chúng, chỉ riêng điều này thôi sẽ đủ để đưa chúng ta tới hài hòa cùng “Tự nhiên”.

Ca ngợi và chê trách là những chức năng của vô minh; chúng ta là những gì chúng ta là, giống như các hòn đá và cây cỏ, giống như những con ong và con hải li, và nếu như thật là phi lí tính khi chê trách hay đòi công lí từ những đồ vật hay động vật, từ khí hậu hay đất đai hay thú hoang, khi chúng làm chúng ta đau, thì cũng là phi lí tính không kém khi chê trách những tính cách hay hành động không kém tất định của con người. Chúng ta có thể lấy làm tiếc - và lên án và vạch trần ra - chiều sâu thói độc ác, sự bất công và sự ngu tối của con người, rồi tự an ủi mình với sự chắc chắn rằng với tiến bộ nhanh chóng ở tri thức thường nghiệm mới mẻ của chúng ta thì điều này sẽ sớm qua đi giống như một cơn ác mộng; vì rằng tiến bộ và giáo dục, nếu chưa phải là tất yếu, thì dù sao cũng có khả năng rất cao. Niềm tin vào tính khả dĩ (hay khả năng) của hạnh phúc như sản phẩm của sự tổ chức hợp lí liên kết tất cả các nhà thông thái nhân đức của thời hiện đại, từ những nhà siêu hình của thời Phục hưng ở Italia cho đến các nhà tư tưởng tiến hóa luận của phong trào Khai sáng (Aufklarung) Đức, từ những nhà cấp tiến và những người theo chủ nghĩa công lợi của nước Pháp thời tiền cách mạng cho đến những người minh triết sùng bái khoa học của thế kỉ 19 và 20. Đây là tâm điểm của mọi thứ Không tưởng từ Bacon và Campanella81 cho đến Lessing và Condorcet, Saint-Simon và Cabet, Fourier và Owen, kết thúc trong những hoang tưởng quan liêu của Auguste Comte với cái thế giới trật tự ngăn nắp một cách cuồng tín của những con người vui sướng được tham gia vào việc hoàn tất các chức năng của mình, mỗi người với lĩnh vực riêng của mình được xác định nghiêm ngặt trong một hệ thống thứ bậc xếp đặt hợp lí và hoàn toàn không thể biến đổi của một xã hội hoàn hảo. Những vị ấy là những nhà tiên tri đầy nhân ái - ngay thời đại của chúng ta cũng đã biết đến nhiều người trong số họ, từ Jules Verne và H.G. Wells và Anatole France và Bernard Shaw cho đến vô số những môn đệ người Mĩ của họ - đầy rộng lượng sẵn sàng hướng đến toàn nhân loại, thực lòng muốn tìm cách giải cứu cho mọi sinh linh thoát khỏi gánh nặng của ngu dốt, buồn khổ, nghèo túng và sự phụ thuộc đầy nhục nhã vào những người khác.

Biến thể khác của thái độ này có giọng điệu và cảm xúc ít dễ chịu hơn nhiều. Khi Hegel và người đi theo ông là Marx, mô tả những quá trình lịch sử, thì họ cũng giả định rằng những con người và các xã hội của họ là bộ phận và mảnh nhỏ của một tự nhiên rộng lớn hơn, Hegel xem tính chất của cái tự nhiên ấy là tinh thần, còn Marx xem nó là vật chất. Những sức mạnh xã hội vĩ đại hoạt động trong tự nhiên ấy thì chỉ có những cá nhân tài năng xuất sắc nhất mới nhận biết được mà thôi; chiều hướng bình thường của con người là bị mù quáng ở những mức độ khác nhau, không nhìn thấy được những gí thực sự quyết định sự hình thành đời sống của họ, họ sùng bái vật linh và tạo ra những huyền thoại ấu trĩ mà họ tôn lên thành những quan điểm hay lí thuyết nhằm giải thích thế giới họ đang sống. Đôi khi những sức mạnh thực tế - mang tính khách quan và bất khả kháng - vốn là những sức mạnh đích thực cai trị thế giới, [những sức mạnh ấy] phát triển tới một điểm mà ở đó một tiến bộ mới của lịch sử sẽ là “thích hợp”. Sau đó (cả Hegel và Marx đều hết sức tin tưởng) sẽ tới những thời điểm quyết định của tiến bộ; chúng có hình thức những bước nhảy vọt mang tính chất biến cố lớn đầy hung bạo, những cuộc cách mạng mang tính phá hủy, vốn thường xuyên đi cùng với khói lửa và gươm đao, sẽ thiết lập nên một trật tự mới trên đống hoang tàn của thế giới cũ. Các triết thuyết ngớ ngẩn, lỗi thời, thiển cận, nghiệp dư của đám cư dân sống trong tổ chức cũ, tất yếu sẽ bị đập tan và quét sạch cùng với các chủ nhân của chúng.

Đối với Hegel và khá nhiều người khác nữa, tuy không phải là tất cả, trong số các triết gia và thi sĩ của phong trào lãng mạn, lịch sử là một cuộc đấu tranh liên miên của những sức mạnh tinh thần bao la, lúc thì hiện thân ở trong các tổ chức rộng lớn - các Giáo hội, các chủng tộc, các nền văn minh, các đế chế, các Quốc gia dân tộc - lúc thì ở trong các cá nhân có tầm vóc vượt trên con người thường - “những nhân vật lịch sử tầm cỡ thế giới” - những thiên tài táo bạo và không chút động lòng vượt hẳn lên trên và khinh miệt những kẻ nhỏ nhoi cùng thời với họ. Đối với Marx, cuộc đấu tranh là một cuộc vật lộn giữa những nhóm người có tổ chức, được quy định về mặt xã hội - những giai cấp hình thành bởi cuộc đấu tranh để tồn tại và sống sót, và hệ quả là để kiểm soát quyền lực. Có một nét nhạo báng (chỉ những môn đồ nhân từ và một lòng một dạ nhất của họ mới không nghe thấy) ở trong lời lẽ của cả hai nhà tư tưởng, cứ như là họ thưởng ngoạn sự bối rối và phá hủy của bọn phàm phu tục tử, những người đàn ông và đàn bà bình thường bị kẹt vào một trong những thời khắc quyết định của lịch sử. Cả Hegel và Marx đều làm hiện ra hình ảnh của những con người hòa bình và ngốc nghếch, phần nhiều không nhận ra được vai trò mà họ đóng trong lịch sử, trong khi xây dựng những ngôi nhà cho mình với niềm hi vọng và sự hồn nhiên ở dưới bờ dốc xanh mà họ tưởng là phía núi an bình, cứ tin cậy vào tính bền lâu của lối sống đặc thù của họ, của trật tự kinh tế, xã hội và chính trị của riêng họ, xem những giá trị của riêng họ cứ như là những chuẩn mực vĩnh hằng, sống, làm việc, tranh đấu mà không hề biết về những quá trình vũ trụ, mà trước những quá trình ấy cuộc đòi của họ chỉ là một giai đoạn thoáng qua. Thế nhưng quả núi lại không phải là quả núi bình thường; nó là một núi lửa; rồi khi mà (như triết gia thì bao giờ cũng biết ắt sẽ như vậy) sự phun trào tất yếu của nó đến, những ngôi nhà của họ và các định chế được chăm sóc ti mỉ của họ, các lí tưởng của họ, các lối sống cùng những giá trị của họ bị thổi bay đi mất trong một biến cố lớn đánh dấu bước nhảy vọt từ giai đoạn “thấp hơn” lên giai đoạn “cao hơn”. Khi điểm này đạt tới, cả hai nhà tiên tri về sự phá hủy đều giống như cá gặp nước; họ đi vào di sản của mình; họ quan sát chăm chú đám cháy lớn với sự mỉa mai và khinh thị đầy thách thức gần như kiểu của Byron. Sáng suốt tức là hiểu được chiều hướng mà thế giới đang chuyển động về đó không thể lay chuyển, tức là đồng nhất hóa bản thân mình với sức mạnh đang lên, dần đưa vào một thế giới mới. Marx - và đó là vai diễn của ông gây hấp dẫn cho những người có cảm xúc tương đồng - một cách hả hê, theo cách riêng của ông không kém phần say đắm so với Nietzsche và Bakunin, đồng nhất hóa bản thân mình với một sức mạnh to lớn đầy sáng tạo trong chính ngay tính phá hủy của nó, và ông được chào đón với sự bối rối và hãi hùng chỉ bởi những người mà những giá trị của họ mang tính chủ quan một cách vô vọng, là những người lắng nghe lương tâm của mình, những cảm giác của mình, hoặc là những gì mà các nhũ mẫu hay thầy giáo nói cho họ biết mà không nhận thức được những vinh quang của cuộc sống trong một thế giới cứ chuyển động từ vụ nổ này đến vụ nổ khác để hoàn tất bản đồ án vĩ đại của vũ trụ. Khi lịch sử tiến hành cuộc trả thù của mình - và mỗi nhà tiên tri đang phát khùng (enragé) ở thế kỉ 19 trông cậy vào nó để trả thù cho mình chống lại những gì mà anh ta căm ghét nhất - sự hèn hạ, nỗi thương tâm, cảnh lố lăng, những tổ kiến đang làm con người ngột ngạt sẽ phải bị nghiền nát thật đúng lẽ công bằng bởi vì cái gì là công bằng và bất công, tốt và xấu, được xác định bởi mục tiêu mà mọi tạo vật đều hướng tới. Bất cứ cái gì đứng ở bên phía lí trí thắng cuộc đều là đúng đắn công bằng và sáng suốt; bất cứ cái gì đứng ở phía bên kia, bên phía của cái thế giới mà theo số mệnh phải bị phá hủy bởi vận động của những sức mạnh lí trí, đều bị gọi thật đúng là ngốc nghếch, ngu dốt, chủ quan, tùy tiện, mù quáng; và nếu như nó đi quá xa tới chỗ cố kháng cự lại những sức mạnh được định trước thay thế nó, khi ấy thì nó - tức là những kẻ ngốc nghếch và bất lương và tầm thường cấu thành nó - sẽ bị gọi thật đúng là lạc hậu, xấu xa, ngu dân, ngoan cố thù địch với những lợi ích sâu xa nhất của nhân loại.

Dẫu những hình thức ấy của tất định luận khác nhau về giọng điệu - có thể là mang tính khoa học, nhân văn và lạc quan hoặc giận dữ, sấm truyền và hả hê - chúng đều thống nhất trong điều này: ấy là thế giới có một chiều hướng và được cai tri bởi các định luật, chiều hướng và các định luật ấy ở mức độ nào đó có thể được khám phá bằng cách áp dụng những kĩ xảo thích đáng để khảo sát; hơn thế nữa, nắm vững được hoạt động của những định luật này chỉ có thể là những người hiểu được rằng cuộc sống, tính cách và hành động của các cá nhân, cả về tinh thần lẫn vật chất, đều bị điều khiển bởi những cái “toàn thể” cấu thành cái được gọi là “sức mạnh”, lịch sử đích thực mang tính “khoa học” (hay tính “triết học”) phải được diễn đạt dưới dạng thức chiều hướng của những sức mạnh ấy. Tìm được lời giải thích về chuyện tại sao những cá nhân hay những nhóm người nhất định lại hành động hay suy nghĩ hay cảm nhận theo một cách này chứ không theo cách khác, thì trước hết người ta phải tìm hiểu cấu trúc, tình trạng phát triển và chiều hướng của những cái “toàn thể” như vậy, ví dụ các cá nhân như thế thuộc về những tổ chức rộng lớn mang tính xã hội, kinh tế, chính trị, tôn giáo nào; một khi biết được điều này thì hành vi của các cá nhân (hay hành vi mang tính đặc trưng nhất trong số họ) ắt phải trở nên khả dĩ diễn dịch được một cách logic và không còn tạo thành vấn đề riêng biệt. Ý tưởng về bản diện của những thực thể rộng lớn hay các sức mạnh, cũng như các chức năng của chúng, khác biệt với nhau từ lí thuyết gia này tới lí thuyết gia kia. Chủng tộc, màu da, Giáo hội, quốc gia, giai cấp; khí hậu, thủy lợi, công nghệ, địa chính trị; nền văn minh, cấu trúc xã hội, Tinh thần Nhân bản, Vô thức Tập thể, [ấy là] lấy một vài những khái niệm đó một cách ngẫu nhiên, tất cả chúng đều đã đóng vai trò của mình trong những hệ thống có tính chất lịch sử-thần luận như là những vai chính trong một giai đoạn lịch sử. Chúng được miêu tả như là những sức mạnh có thực mà các cá nhân là những thành phần của chúng - vừa là thành phần cấu tạo, lại vừa là những biểu hiện có khả năng diễn đạt nhiều nhất về thời kì này hay thời kì kia của các sức mạnh ấy. Những ai nhận thức được sáng tỏ và sâu sắc hơn những người khác về vai trò mà họ đóng, dù muốn dù không, tới mức độ khiến cho họ đóng vai thật táo bạo và hiệu quả hơn, những người ấy là những lãnh tụ tự nhiên. Những kẻ khác, bị dẫn dắt bởi những quan tâm cá nhân nhỏ nhen của mình khiến họ làm ngơ hay quên mất rằng họ là bộ phận của một khuôn mẫu thay đổi liên tục hay theo từng cơn co giật, [những người ấy] bị lừa dối cứ tưởng rằng (hay ít ra cũng cứ hành động tựa như là) họ và những người cùng loại với họ sẽ ổn định mãi mãi ở một trình độ xác định nào đó.

Giống như tất cả những hình thức của tất định luận đích thực, dù biến thể của những thái độ ấy bao hàm điều gì đi nữa, thì chúng cũng đều loại bỏ ý kiến về trách nhiệm cá nhân. Rốt cuộc thì cũng là chuyện khá tự nhiên đối với những con người, dù vì những lí do thực tế hay do tính cách hay suy tư, ấy là tra vấn xem ai hay cái gì phải chịu trách nhiệm về tình trạng của sự việc mà họ thấy hài lòng hay lo lắng, phấn khởi hay kinh hãi. Nếu lịch sử thế giới là do hoạt động của những sức mạnh khả dĩ nhận biết được, khác biệt và ít chịu tác động bởi những ý chí tự do và những lựa chọn tự do của con người (dù chúng có xảy ra hay là không), khi đó thì lời giải thích thích đáng về những gì xảy ra phải diễn đạt dưới dạng thức tiến hóa của những sức mạnh ấy. Và khi đó sẽ có xu hướng nói rằng không phải những cá nhân, mà chính là những thực thể rộng lớn hơn ấy phải “chịu trách nhiệm” tối hậu. Tôi sống vào một thời điểm đặc thù trong những hoàn cảnh tinh thần và xã hội và kinh tế mà tôi bị ném vào đó: làm sao tôi có thể lựa chọn và hành động như tôi đã làm? Những giá trị mà tôi dựa vào để định hướng đời mình, là những giá trị của giai cấp của tôi, hay của chủng tộc, hay của Giáo hội, hay của nền văn minh, hay là vai diễn và thân phận “địa vị” của tôi - vị trí của tôi trong “cấu trúc xã hội”. Không ai phủ nhận được rằng thật là ngu xuẩn cũng như độc ác nếu chê trách tôi vì tôi đã không cao hơn chiều cao tôi đang có, hoặc là xem màu tóc của tôi hay phẩm chất trí tuệ của tôi hay lòng dạ của tôi như là những thứ mà về nguyên tắc tôi có thể tự do lựa chọn chúng, những thuộc tính ấy vốn là thế như chúng đang là, không qua sự lựa chọn nào của tôi cả. Nếu tôi suy rộng phạm trù ấy vô giới hạn thì bất cứ thứ gì cũng đều là tất yếu và không tránh khỏi. Việc suy rộng vô giới hạn tính tất yếu lên bất cứ quan điểm nào mô tả ở trên, đều trở thành thực chất cho việc giải thích mọi thứ. Chê trách và ca ngợi, xem xét lựa chọn những phương cách hành động khả dĩ khác nhau, kết tội hay bảo vệ những nhân vật lịch sử vì họ đã hành động như họ đang hay đã làm, [tất cả những thứ đó] sẽ trở thanh việc làm lố bịch. Thán phục và khinh bỉ cá nhân này hay cá nhân kia thật ra có thể vẫn tiếp tục, nhưng nó trở thành giống với những phán xét mĩ học. Chúng ta có thể tán dương hay lên án, cảm tình hay căm ghét, thỏa mãn hay xấu hổ, nhưng chúng ta chẳng thể chê trách cũng như biện minh. Alexander, Caesar, Attila, Muhammad, Cromwell, Hitler đều giống như nạn lụt và động đất, cảnh hoàng hôn, đại dương, núi non; chúng ta có thể thán phục hay sợ hãi họ, hoan nghênh hay nguyền rủa họ, thế nhưng tố cáo hay ca tụng các hành động của họ thì (rốt cuộc) cũng cảm thấy như là thuyết giáo với cái cây (giống như Frederick Đại đế đã chỉ ra với sự chua chát vốn quen thuộc của ông, trong lúc ông đả kích tác phẩm Hệ thống tự nhiên (System of Nature) của Holbach).82

Đánh giá mức độ trách nhiệm của họ, quy cho hậu quả này hay hậu quả kia đối với quyết định tự do của họ, đưa họ ra như tấm gương hay vật răn đe, tìm kiếm rút ra những bài học từ những cuộc đời của họ, [những chuyện này] đều trở thành chuyện vô nghĩa. Chúng ta có thể cảm thấy hổ thẹn về những hành động của mình, về những trạng thái tâm hồn của mình, hay là của bọn họ, như một người gù xấu hổ về cái bướu của anh ta; nhưng chúng ta không thể cảm thấy ăn năn hối hận: vì rằng điều này hàm ý một niềm tin rằng chúng ta không chỉ đã có thể hành động khác đi, mà còn đã có thể tự do lựa chọn làm như thế. Những người ấy đã hiện hữu như họ đã hiện hữu; và chúng ta cũng như vậy. Họ đã hành động như họ đã hành động; và chúng ta cũng như vậy. Hành vi của họ có thể được giải thích dưới dạng thức của bất cứ phạm trù cơ bản nào thường vẫn dùng, nhờ đó mà lịch sử có thể được quy giản về một môn khoa học tự nhiên hoặc một sơ đồ siêu hình hay thần luận. Chúng ta có thể làm đến mức ấy đối với họ, và ở một mức độ giới hạn hơn, đối với chứng ta và những người đương thời với chúng ta. Đó là tất cả những gì có thể làm được.

Vậy mà chúng ta vẫn còn bị các nhà tất định luận đầu óc cứng cỏi khẩn thiết yêu cầu một cách khá kì cục, nhân danh chính cương vị khoa học về môn học, đòi phải tránh thiên vị; những thỉnh cầu thường xuyên được đưa ra cho các nhà sử học [đòi họ phải] kiềm chế việc ngồi phán xét, giữ thái độ khách quan, không thêm thắt những giá trị của hiện tại vào quá khứ, hay của phương Tây vào phương Đông; đừng thán phục hay chỉ trích những người La Mã cổ đại vì họ giống hay không giống ngưòi Mĩ hiện đại; đừng lên án thời Trung Cổ vì họ đã thất bại trong thực hành lòng khoan dung giống như Voltaire quan niệm; cũng đừng tán thưởng Gracchi83 vì chúng ta bị choáng bởi những bất công xã hội thời nay, hay phê phán Cicero vì những trải nghiệm của chính chúng ta về các luật sư trong chính trị. Chúng ta là gì mà cứ hô hào như vậy, cứ liên tục nài nỉ sử dụng trí tưởng tượng của chúng ta hay sức mạnh của chúng ta về thiện cảm hay thông hiểu nhằm tránh thái độ bất công nảy sinh từ việc thấu hiểu không đầy đủ những ý định và những lề thói và những tập tục của những nền văn hóa xa cách với chúng ta về thời gian và không gian? Điều này là có ý nghĩa gì, ngoại trừ giả định rằng đưa ra lời ca ngợi và chê trách về đạo đức, tìm kiếm lẽ công bằng thì không được hoàn toàn phi lí tính, rằng những con người xứng đáng được hưởng sự công bằng, còn cây cỏ và sỏi đá thì không, và rằng vì vậy mà chúng ta phải cố thật công bằng, và đừng ca ngợi hay chê trách một cách tùy tiện, hay sai lầm do ngu dốt, hay thành kiến, hay thiếu trí tưởng tượng? Tuy nhiên, một khi chúng ta dịch chuyển [gánh nặng] trách nhiệm về những gì xảy ra, chuyển từ cái lưng của những cá nhân, sang hoạt động mang tính nhân quả hay tính thần luận của những tổ chức rộng lớn, hay của các nền văn hóa hay của những yếu tố vật thể, vậy thì có nghĩa gì khi kêu gọi đến thiện cảm của chúng ta hay ý nghĩa của lịch sử, hay khi thở dài về lí tưởng hoàn toàn không thiên vị quả thực không thể nào đạt được đầy đủ, nhưng một số người tới được gần hơn những người khác? Ít người bị kết tội là tường thuật theo thiên kiến về những biến đổi địa chất hay là thiếu thiện cảm trực giác khi mô tả tác động của khí hậu Italia lên nền nông nghiệp của La Mã cổ đại. 

Có thể đáp lại điều này rằng, ngay cả nếu như lịch sử, giống như khoa học tự nhiên, là thỏa mãn óc tò mò về những quá trình không thể biến cải - chỉ đơn thuần bị biến dạng bởi những phán xét đạo đức - chúng ta sẽ đạt được thấu hiểu đầy đủ kém hơn ngay cả đối với những sự kiện trần trụi, nếu chúng ta không có được sự thấu hiểu giàu tưởng tượng ở mức độ nào đó về những cung cách sống xa lạ hay ít được biết đối với chúng ta. Điều này chắc chắn là đúng rồi; thế nhưng nó không xuyên thấu vào tâm điểm của sự phản bác chống lại các nhà sử học bị buộc tội là có thành kiến hay tô vẽ quá nhiều các tường trình của mình. Rất có thể (và chắc hẳn đã được nói ra thường xuyên) rằng Gibbon hay Macaulay hay Treitschke hay Belloc84 thất bại trong việc thể hiện lại những sự kiện như chúng ta ngờ họ đã bị như vậy. Tất nhiên nói vậy là buộc tội những người viết tỏ ra không thỏa đáng nghiêm trọng trong tư cách là nhà sử học; thế nhưng đó không phải là lời buộc tội chính yếu. Đúng hơn chắc là có ý nói rằng theo một nghĩa nào đó họ không chỉ đơn thuần thiếu cẩn trọng hay nông cạn hay thiếu đầy đủ, mà còn là thiếu công bằng nữa; rằng họ đang tìm cách đạt được sự tán thành của chúng ta thiên về một phía, và để đạt được điều này mà đã gièm pha bất công phía bên kia; rằng trong khi xử lí thiên về một phía họ trích dẫn bằng chứng và sử dụng các phương pháp suy diễn và trình bày để họ phủ nhận phía bên kia với dụng ý xấu; và động cơ của họ làm chuyện này được họ dẫn ra từ sự tin chắc của họ về chuyện người ta phải như thế nào, phải làm những gì; và đôi khi những sự tin chắc ấy nảy sinh từ những quan điểm (được phán xét dưới dạng thức của những chuẩn mực và thang bậc thông thường về giá trị đang thịnh hành trong những xã hội mà họ và chúng ta đang thuộc về) vốn là quá hạn hẹp; hay phi lí tính hay không thể áp dụng được ở thời kì lịch sử đang xem xét; rằng vì lí do đó mà họ đã vùi dập hay xuyên tạc các sự kiện chân thực như là các sự kiện chân thực được quan niệm bởi giới có học thức ở thời đại của họ hay của chúng ta. Chúng ta than phiền không chỉ đơn thuần về chuyện dập xóa hay xuyên tạc, mà còn về những mục đích tuyên truyền mà chúng ta cho là có thể có; và có nói về tuyên truyền chút nào thì cũng chỉ là thứ tuyên truyền có thể hiệu quả một cách nguy hiểm, hàm ý rằng ý kiến về không công bằng không phải là không có hiệu quả, rằng những nhận xét về hạnh kiểm phải được và có thể được đưa ra thật thích đáng; thực chất là nói rằng hoặc là tôi phải cố gắng không ca ngợi hay chê trách chút nào, hoặc là nếu tôi không thể tránh được làm điều này vì tôi là con người và những quan điểm của tôi tất yếu phải phát ra với ý kiến đánh giá đạo đức, thì tôi phải cố gắng làm chuyện này thật công bằng, tách mình ra thật vô tư, dựa vào bằng chứng, đừng chê trách người ta vì thất bại trong thực hiện những điều bất khả thi, và cũng đừng ca ngợi người ta vì chuyện này. Điều này về phần mình cũng hàm ý niềm tin vào trách nhiệm cá nhân - ít nhất cũng ở một mức độ nào đó. Mức độ lớn đến đâu - vương quốc của tính khả dĩ, của những phương án khác nhau khả dĩ tự do lựa chọn, rộng đến đâu - sẽ phụ thuộc vào hiểu biết của người đó về tự nhiên và lịch sử; nhưng không bao giờ lại chẳng có một chút nào hết.

Mặc dù chuyện là như thế, nhưng tôi vẫn thấy hình như đây chính là điều mà các nhà sử học và xã hội học bước chân vào tất định luận siêu hình hay khoa học hầu như luôn phủ nhận, họ nói điều hợp lí ở trong “phân tích chung cuộc” (cách nói ưa thích của họ) là mọi thứ - hay quá nhiều thứ khiến cho chẳng có khác biệt gí - tóm lại đều quy về tác động của giai cấp, hay của sắc tộc, hay của nền văn minh, hay của cấu trúc xã hội. Hình như những nhà tư tưởng như vậy mắc vào niềm tin rằng, dù chúng ta không có khả năng vẽ ra đường cong biểu diễn cuộc đời của mỗi cá nhân với những dữ liệu chúng ta có được cũng như các định luật mà chúng ta tự cho là đã khám phá được, thế nhưng về nguyên tắc, nếu giả sử chúng ta là toàn thức thì chúng ta ắt làm được thế, ít nhất cũng về những người khác, cũng chính xác như là các kĩ xảo của tiên đoán khoa học sẽ cho phép; hệ quả là ngay cả cái phần tối thiểu còn lại của phán xét giá trị mà không một ý thức kỉ luật tự giác và sự tự ẩn mình nào có thể loại bỏ hoàn toàn, vốn là thứ đem lại màu sắc và là một bộ phận của chính sự lựa chọn của chúng ta đối với chất liệu lịch sử, của điểm nhấn của chúng ta dù có mang tính ướm thử đến đâu trước những biến cố và những cá nhân như là quan trọng hơn, hay thú vị hơn, hay phi thường hơn những biến cố và những người khác, [cái phần còn lại ấy] hoặc phải là kết quả của điều kiện quyết định “không thể tránh khỏi” của riêng chúng ta, hoặc là của thói phù phiếm và sự ngu dốt không thể chữa khỏi của riêng chúng ta; trong bất cứ trường hợp nào thì nó cũng là thực tế không tránh khỏi - cái giá của thân phận con người, là bộ phận của tính bất hoàn hảo ở con người; đành phải chấp nhận chỉ vì không thể loại bỏ nó theo nghĩa đen, vì rằng con người và thế giới quan của họ hiện hữu như chúng hiện hữu, và con người phán xét như họ đang phán xét; vì rằng họ là hữu hạn và cứ quên mất hay không thể đối diện với sự thật rằng họ là như vậy.

Tất nhiên cái kết luận nghiêm ngặt ấy không được thực sự chấp nhận bởi bất cứ nhà sử học đang làm việc nào, hay bởi bất cứ một con người nào vào những thời khắc phi-lí thuyết của anh ta; và dù có như vậy chăng nữa, thật khá nghịch lí là những luận chứng dẫn đưa chúng ta đến những kết luận không thể bảo vệ được như thế, bằng cách nhấn mạnh rằng không gian tự do của con người thật là hẹp đến chừng nào, nên vì thế mà trách nhiệm của con người cũng hẹp như vậy, hẹp hơn là như đã được tín ở những thời đại ngu dốt về khoa học, [những luận chứng ấy] đã dạy cho nhiều bài học tuyệt vời về kiềm chế và khiêm nhường. Thế nhưng xác nhận điều đó, một khi con người bị “tất định”, thì lịch sử, tôi có ý nói hoạt động của các nhà sử học, nếu nói một cách nghiêm ngặt, không bao giờ lại có thể là chính đáng hay không chính đáng, mà chỉ có thể là chân thực hay ngụy tạo, sáng suốt hay ngớ ngẩn, [lịch sử] là trình bày chi tiết một câu chuyện hiểu lầm đầy cao quý, câu chuyện hiếm khi có thể được diễn lại, nếu không nói là chẳng khi nào. Vì rằng sự chấp nhận nó về lí thuyết, dù có thiếu nhiệt tình đến thế nào, cũng đã dẫn đến việc vẽ ra quá mức bức tranh của những hậu quả văn minh, và đã rà soát xét lại nhiều hành động độc ác và bất công có tính truyền thống. 

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng