[Khảo lược Adam Smith] - Chương V: Các bài giảng và trước tác khác của Smith

[Khảo lược Adam Smith] - Chương V: Các bài giảng và trước tác khác của Smith

Smith đã ra lệnh đốt hầu hết những ghi chép chưa được công bố của ông ngay khi ông qua đời (một yêu cầu hoàn toàn bình thường thời đó, lúc ấy những người cầm bút đều muốn rằng hậu thế sẽ đánh giá họ trên cơ sở những tác phẩm đã hoàn thành chứ không phải trên cơ sở những ghi chép ban đầu). Cho nên ngoài Của cải của các quốc gia và Lí thuyết về cảm nhận đạo đức, các tác phẩm còn lại chẳng đáng bao nhiêu. Tuy nhiên, một ít tác phẩm còn lại cũng cho thấy Smith là người học rộng và quan tâm đến nhiều vấn đề: một bài phê bình cuốn từ điển của Samuel Johnson, những bài báo bàn về xu hướng trí tuệ ở châu Âu và nguồn gốc của các ngôn ngữ, những bài viết về nghệ thuật, bao trùm cả các lĩnh vực như hội hoa, kịch nghệ, nhạc và khiêu vũ, nhận xét về thơ Ý và Anh, các bài báo về vật lí và triết học cổ điển và một luận văn dài 70 trang về The History of Astronomy (Lịch sử thiên văn học).

May mắn là chúng ta còn có được mấy cuốn vở của một số sinh viên ghi lại Lectures on Rhetoric and Belles Lettres (Các bài giảng về nghệ thuật tu từ và văn chương) và Lectures on Jurisprudence (Các bài giảng về luật học). Mặc dù đây không phải là ngôn từ của chính Smith, nhưng chúng cũng cung cấp cho ta nhận thức đầy đủ giá trị về sự phát triển trí tuệ của ông thời ông giảng dạy ở Glasgow. Nhiều đoạn trong hai tác phẩm này đã tái xuất hiện trong Của cải của các quốc gia.

Một chủ đề nhất quán

Bất chấp sự đa dạng của các bộ môn được Smith bàn tới trong các bài giảng và các tác phẩm này, tất cả đều thể hiện cách tiếp cận vấn để của ông, và đấy chính là điều quan trọng. Smith là nhà tâm lí học nhiều hơn là nhà kinh tế học, đạo đức học, sử học hay là nhà ngữ pháp học. Ông muốn tìm hiểu xem tâm trí của con người đối xử với thế giới và với những người khác như thế nào và làm thế nào mà từ những mối quan hệ đó người ta đã tạo ra những công trình vĩ đại như thế. Đối với ông, khoa học nói về hiện thực ít hơn là nói về cái cách mà tâm trí con người phân tích và sắp xếp hiện thực cho phù hợp với nhu cầu của con người. Ngôn ngữ, đạo đức và kinh tế là những cơ cấu hữu ích đã xuất hiện bằng cách này hay cách khác từ những cuộc gặp gỡ của tâm trí. Luật pháp và công lí là nói về biện pháp mà con người dùng để bảo vệ sự cùng tổn tại một cách hòa bình.

Cách giải thích của ông hiện nay được gọi là mang tính tiến hóa. Thiên nhiên đã ban cho chúng ta những khuynh hướng tự nhiên phối hợp với nhau theo cách nào đó để buộc các định chế xã hội rộng lớn hơn này hoạt động vì lợi ích chung. Chúng ta có thể không hiểu được làm sao mà những cố gắng nhằm thu lợi, nhằm thương thảo, giao lưu hoặc chung sống với người khác lại tạo ra một hệ thống kinh tế, ngôn ngữ và công lí tổng quát và hữu ích: nhưng đấy đúng là những hệ thống hữu ích. Nếu những hệ thống này không hữu ích như thế và nếu chúng có tính cách phá hoại thì xã hội không thể tồn tại được. Điều Smith cố gắng tìm hiểu là những hành động mang tính cá nhân đó liên hệ với toàn thể như thế nào.

Smith bàn về triết lí của khoa học

Lịch sử thiên văn học vì vậy mà có mục tiêu sâu xa hơn là kể chuyện ngắm sao trời, như tên gọi đẩy đủ của nó: The Principles Which Lead and Direct Philosophical Enquiries, Illustrated by the History of Astronomy (Những nguyên tắc hướng dẫn và chỉ đạo việc nghiên cứu triết học, được minh hoa bằng lịch sử thiên văn học) cho thấy. Đây đúng là tác phẩm viết về tâm trí của con người và cách chúng ta phân tích, phân loại và nhận thức thế giới. Tác phẩm bắt đầu bằng câu hỏi: điều gì dẫn chúng ta đến việc lập ra các lí thuyết khoa học, sau đó chỉ ra các lí thuyết khoa học được đưa ra, được kiểm nghiệm và thay thế như thế nào, và tiếp theo, bằng cách lấy các tác phẩm của Isaac Newton làm thí dụ, nó nghiên cứu các điều kiện tạo ra một lí thuyết “tốt”. Thật là hiện đại đến mức có thể làm người ta kinh ngạc. Smith đã nhận thức được rằng khoa học chính là nỗ lực mô hình hóa thế giới - không phải là nghiên cứu “hiện thực” mà là nghiên cứu tâm lí và cách giải thích của con người.

Bức bối vì chưa biết

Smith chỉ ra rằng chúng ta chấp nhận các sự vật quen thuộc như chúng vốn là như thế mà không cần nghĩ ngợi gì. Nhưng khi có những sự vật mới xuất hiện thì đấy là một điều ngạc nhiên1. Chúng ta sẽ tự hỏi làm sao chúng có thể chui vào được thế giới quen thuộc của chúng ta2. Cảm giác rằng sự vật nào đó không không phù hợp với thể giới quen thuộc của chúng ta tạo ra sự bất an: nhưng lí trí và trí tưởng tưởng của chúng ta cũng như khả năng trừu tượng hóa và phân loại của chúng ta sẽ giúp chúng ta đưa hiện tượng mới vào trong bối cảnh.

Thí dụ, chúng ta ngạc nhiên khi nhìn thấy cục sắt bị thanh nam châm hút: nhưng trí tưởng tượng của chúng ta giả định rằng có một lực uốn lượn xung quanh thỏi nam châm, lực này giúp chúng ta giải thích sự chuyển động của cục sắt. Đấy là lí thuyết thô thiển, nhưng Smith muốn chứng tỏ rằng các lí thuyết đã được đưa ra, được kiểm nghiệm và cải tiến như thế nào.

Phỏng đoán và bác bỏ

Smith đã dùng lịch sử môn thiên văn học minh họạ cho điều đó. Vì đối với các nhà thiên văn học cổ đại thì sự chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao chính là “điều ngạc nhiên” cần phải được giải thích. Một giả thuyết là bầu trời giống như một cái vòm, quay hằng ngày từ Đông sang Tây, còn mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao thì được gắn trên đó. Đáng tiếc là mô hình này không giải thích được những chuyển động bất thường của các hành tinh. Từ đó, những lí thuyết phức tạp hơn lại được đưa ra: Có mấy hình cầu, một cái chuyển động đều đặn từ Đông sang Tây, còn những cái khác (mang theo các hành tinh) thì chuyển động một cách hỗn loạn hơn. Nhưng chính sự chuyển động hỗn loạn này lại cũng đòi hỏi phải được giải thích. Càng ngày người ta càng đưa ra thêm nhiều hình cầu hơn, cái nọ quay xung quanh cái kia theo những hướng khác nhau - cuối cùng người ta đã tưởng tưởng được tổng cộng 72 hình cầu như thế. Chỉ có một rắc rối: “Hệ thống này trở thành phức tạp và rối rắm như chính hình thức bên ngoài của nó, tức là cái hình thức đã được phát minh ra nhằm nhằm tạo ra sự đơn giản và mạch lạc3

Sau này, các nhà thiên văn học đã tìm cách giải thích chuyển động của các hành tinh một cách đơn giản hơn. Copernicus đưa ra hệ thống với mặt trời nằm ở trung tâm chứ không phải trái đất nằm ở trung tâm nữa. Mô hình này dễ dàng giai thích chuyển động bất thường của các hành tinh và trái đất - theo mô hình này - cũng chuyển động chứ không còn đứng yên nữa. Mặc dù ý tưởng cho rằng trái đất không phải là cái rốn của vũ trụ đã làm nhiều người choáng váng, nhưng các nhà thiên văn học công nhận rằng ý tưởng đó là hữu ích - ít nhất là cho đến khi các quan sát chính xác hơn phát hiện ra các thiếu sót của nó.

Đến lượt mình, Isaac Newton đưa ra lí giải đơn giản và tổng quát, không phải các hành tinh chuyển động thế nào mà vì sao chúng lại chuyển động theo đúng qũy đạo mà người ta quan sát được. Đấy là kết quả của hiện tượng vạn vật hấp dẫn. Chỉ một vài định luật vật lí đơn giản đã đủ sức giải thích qũy đạo hình elip của các hành tinh và những hiện tượng khác, thí dụ như sao chổi, tức là những hiện tượng không ăn nhập được vào hệ thống của Copernicus. Thật đơn giản, thanh thoát và phù hợp với các sự kiện quan sát được.

Khoa học và nhận thức của con người

Đối với Smith, phương pháp khoa học là quá trình giải thích vạn vật theo cách mà nó có thể dễ dàng đọng lại trong tâm trí của con người: quy sự phức tạp của nó thành những nguyên tắc đơn giản mà chúng ta có thể hiểu được. Mô hình của vạn vật được đưa ra, được kiểm nghiệm, được phát hiện là có thiếu sót và được cải tiến - khi chúng trở thành quá hỗn độn hoặc quá mâu thuẫn với những điều quan sát được - bị vứt bỏ, nhường chỗ cho những lí giải tao nhã hơn. Thật là một quan điểm rất hiện đại.

Chúng ta nhìn thấy cái đẹp trong các lí thuyết quy giản những quan sát hỗn độn thành một “vài nguyên lí chung giản dị”. Đấy là vì khoa học là sự tổ chức trí tuệ của chính chúng ta. Theo lời Smith thì tất cả các mô hình khoa học – “tất cả những hệ thống triết lý đều chỉ là những phát minh của trí tưởng tượng mà thôi4”.

Tâm lí học của quá trình giao tiếp

Trong Các bài giảng về nghệ thuật tu từ và văn chương trọng tâm vẫn là tâm lí con người và sự phát triển của một định chế quan trọng nhất của xã hội: sự giao tiếp. Thí dụ, Smith khuyến cáo rằng nếu thính giả có thiện cảm thì ta có thể nói ngay toàn bộ nội dung rồi sau mới giải thích dần. Còn khi gặp phải thính giả có thái độ thù địch thì ta không được ngay lập tức tấn công họ bằng những kết luận còn gây tranh cãi mà phải dẫn dắt từng bước một.

Trong các bài giảng - chỉ còn lại trong các cuốn vở của các sinh viên - và trong tiếu luận Considerations Concerning the First Formation of Languages (Những suy nghĩ liên quan đến quá trình hình thành đầu tiên của các ngôn ngữ), Smith tìm hiểu các ngôn ngữ bằng cách khảo sát quá trình hình thành của chúng. Vì không có các tư liệu lưu trữ thành văn, lịch sử do Smith dưa ra nhất định là chỉ có tính chất phỏng đoán và ông chí dùng một vài ngôn ngữ cố và hiện đại châu Âu làm ví dụ mà thôi. Nhưng lí giải của ông lại có tính cách mạng: ông tin rằng ngôn ngữ phát triển cùng với sự phát triển của xã hội và là công cụ của quá trình phát triển đó.

Giao tiếp và bản chất của con người

Vì ngôn ngữ là sản phẩm của tâm trí của con người nên nó cũng cho ta biết một số khía cạnh thuộc về bản chất của chúng ta, Smith khẳng định như thế. Thí dụ như khả năng phân loại của con người, như ta đã thấy trong tác phẩm Lịch sử thiên văn học, Smith cho rằng người tiền sử có thể đã đặt tên khác nhau cho mọi sự vật. Thật là quá rắc rối, nhưng may là khả năng trừu tượng hóa của con người đã giúp cứu vãn tình hình. Chúng ta có thể nhìn thấy một số tính chất chung trong những vật khác nhau, vì vậy mà chúng ta dùng chung một từ để gọi cả nhóm, thí dụ như từ cây. Chúng ta còn có thể xác định tính chất, thí dụ như màu sắc - cây xanh - hoặc quan hệ - cây mọc trên cái hang5. Đấy là những kĩ thuật có vai trò cực kì quan trọng đối với phương pháp nghiên cứu khoa học, nhưng cũng có giá trị không kém trong việc nhận thức những sự kiện diễn ra trong đời sống hằng ngày.

Smith quyết tâm áp dụng các kĩ thuật pháp lý vào chủ đề kết hợp tất cả các nghiên cứu của ông, từ Của cải của các quốc gia cho đến Các bài giảng về nghệ thuật tu từ và văn chương. Trong tác phẩm trước, vấn đề là xác định các động cơ thúc đẩy quá trình sản xuất và trao đổi và chia những quá trình này thành những những phần nhỏ hơn. Trong tác phẩm sau, vấn để là tìm hiểu tâm lí ẩn chứa đẳng sau quá trình giao tiếp và phân tích cơ cấu cũng như phong cách của nó.

Khoa học giao tiếp

Smith chú ý rất nhiều đền phong cách. Phong cách tốt là ngắn gọn, phù hợp và chính xác6, ông khẳng định như thế. Phong cách phải truyền tải được lòng nhiệt tình của người nói hoặc người viết. Nó phải ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu. Những câu văn ngắn giúp người ta dể hiểu7. Và (ghi chú quan trọng trong Lí thuyết về cảm nhận đạo đức) ngôn ngữ phải khêu gợi được cảm tình và được người đọc hay người nghe chấp nhận.

Vì giao tiếp là vấn để tâm lí, cho nên Smith khẳng định rằng lí lẽ khác nhau thì kĩ thuật phải khác nhau. Ông phân tích một số - từ văn tường thuật, đòi hỏi trình bày một cách khách quan, đến lập luận mô phạm, đòi hỏi phải trình bày nguyên nhân và hậu quả, đến những bài diễn thuyết, cần phải làm cho người ta xúc động. Những minh họạ mà ông đưa ra chứng tỏ ông đã đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà văn và nhà sử học cổ điển.

Nhưng quan trọng nhất trong giao tiếp là phải hiểu người đối thoại. Con người rất dễ đồng cảm, sự đồng cảm này đã giúp cho ngôn ngữ phát triển, từ những cố gắng giao tiếp sớm nhất và thô lậu nhất, thành một định chế xã hội phức tạp và cực kì hữu ích.

Smith bàn về chính phủ và chính sách công

Các bài giảng về luật học của Smith cũng chỉ còn lại trong các cuốn vở của các sinh viên của ông8. Luật học, trong những cuốn vở này có nghĩa là “Ií thuyết về những nguyên lí chung về luật pháp và chính phủ9” hoặc “các quy tắc mà các chính phủ dân sự phải tuân theo10”. Một lần nữa, những bài giảng này có thể được coi là khảo nghiệm về tâm lí xã hội, và cố gắng nhằm mô tả lí do vì sao mà sự tương tác giữa người với người đã buộc chúng ta phải đặt ra luật lệ và các định chế của chính phủ.

Phần mở đầu có tên là công lí, gồm rất nhiều chủ đề, trong đó có bản chất và sự phát triển của chính phủ, hiến pháp, luật quốc gia, tình trạng nô lệ, quyền sở hữu, tòa án và tòa hình sự. Phần quan trọng nữa nói về chính sách, chứa đựng quan điểm của Smith về giá cả, tiền tệ, thương mại và phân công lao động, tức là những quan điểm hình thành nên tác phẩm Của cải của các quốc gia hơn một chục năm sau đó.

Công lí, chính phủ và luật pháp

Ở đây, Smith cũng có quan điểm mang tính tiến hoá. Săn bắn và hái lượm dẫn người ta đến thời đại của những người chăn nuôi nay đây mai đó, sau đó là thời đại nông nghiệp định canh định cư, rồi đến thời đại thương mại, cần phải có những hệ thống cai trị và luật pháp khác nhau nhằm củng cố các hình thức kinh tế đó. (Một thế kỉ sau, Karl Marx đồng ý như thể: Quan hệ sản xuất tạo ra quan hệ xã hội11).

Chính phủ, như Smith viết trong Của cải của các quốc gia, được tạo ra nhằm bảo vệ tài sản, một nhu cầu quan trọng trong thời đại của những người chăn nuôi và trồng trọt. Lợi ích rõ ràng của chính phủ càng được tăng cường thêm bởi xu hướng tự nhiên của con người là tôn trọng uy quyền. Nhưng kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho chế độ dân chủ. Trước đây, tất cả quyền lực đều xuất phát từ tù trưởng địa phương. Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất phải chú ý nhiều hơn đến hằng hà sa số người dân bình thường, tức là những người tiêu thụ của họ. Hạt giống của chính phủ đại diện đã được gieo mầm như thế đó.

Lao động và trao đổi

Những đoạn khác còn chứng tỏ Smith đã thai nghén Của cải của các quốc gia ngay từ giữa những năm 1760. “Chính sự phân công lao động đã làm cho đất nước ngày càng phong phú thêm”, ông nói như thế. Ở đây cũng có thí dụ về nhà máy sản xuất đinh12 và sản xuất áo len, những ngành sản xuất cần sự hợp tác của hàng ngàn người và làm cho việc thuê mướn nhân công lan tỏa ra toàn xã hội. Ông bảo chúng ta rằng: “Khi tiếp xúc với người nấu bia hay người bán thịt để mua bia hay mua thịt, ta không nói với họ rằng ta rất cần bia hay thịt, mà ta sẽ nói với họ rằng họ sẽ rất được lợi nếu bán cho ta với giá nhất định nào đó. Ta không hướng đến lòng nhân từ của họ mà hướng đến tính ái kỉ của họ13. (Có thể các sinh viên đã không ghi chép được chất thơ trong ngôn từ nguyên gốc của Smith).

Tương tự như thế, chúng ta thẩy ở đây cuộc tấn công của Smith vào quan điểm của phái lợi thương, coi của cải là tiền và phải ngăn chặn nhập khẩu để giữ lại tiền. Ông chỉ ra rằng một kẻ hoang toàng, giàu có với cuộc sống phóng túng có thể phung phí hết vốn -  tức là làm suy yếu dần kết quả sản xuất và sự thịnh vượng, mặc dù không một đồng xu nào được rút ra khỏi quá trình lưu thông, Của cải và tiền không phải là một.

Như nhắc lại tác phẩm Của cải của các quốc gia, các bài giảng phát triển các ý tưởng kinh tế được tình bày trong Lí thuyết về cảm nhận đạo đức, Smith khẳng định rằng động cơ của sự tiến bộ về kinh tế không phải là nhu cầu mà là ham muốn của chúng ta. Ông bảo: “Không vừa lòng với bất cứ thứ gì, đây là sự tế nhị mà chỉ có con người mới có14”. Sự tiến bộ về kinh tế không ngừng lại khi ta đã có ăn, có mặc và có nhà ở. Chúng ta luôn luôn yêu cầu cải thiện và vì vậy mà sự tiến bộ trong sản xuất, trong công nghiệp, trong khoa học và nghệ thuật cũng sẽ không bao giờ ngưng.

Chính phủ không đủ tầm

Nếu sản xuất, trao đổi và tích luỹ vốn là con đường dẫn tới tiến bộ về mặt vật chất thì cái gì ngăn chặn sự tiến bộ đó? Smith bảo rằng nói chung là do chính phủ không đủ tầm. Tích luỹ vốn cần thời gian. Nếu người dân tin rằng chính phủ không thể bảo vệ được họ trước bọn trộm cắp và không để họ tự do buôn bán thì họ sẽ không còn chăm chỉ và tích luỹ nữa.

Smith không bao giờ có ý định xuất bản Các bài giảng về luật học cho nên những lời công kích sự thiếu tầm và sự can thiệp của chính phủ ở đây quyết liệt hơn là trong Của cải của các quốc gia. Nhưng phần lớn mục tiêu là giống nhau, bao gồm những thiếu sót trong luật pháp về hợp đồng, về sở hữu ruộng đất và luật về quyền trưởng nam đã lỗi thời; các khoản bao cấp của chính phủ, độc quyền và ưu tiên ưu đãi dành cho một số nhà sản xuất; thời gian tập sự kéo dài, những cản trở và nhiều luật lệ khác ngăn chặn không cho người ta chuyển nghề.

Thuế khóa nặng nề cũng là vật cản. Trong các bài giảng, ông đã bắt đầu nghĩ đến tính hiệu quả của thuế khóa - ông thích thuế đánh vào ruộng đất hơn là thuế đánh vào hàng hóa vì dễ thu hơn. Ông cho rằng có quá nhiều kiểm soát từ chính phủ và từ những điền chủ lớn; người dân cần thị trường và tự do buôn bán chứ không cần chỉ đạo từ bên trên.

Những hành động can thiệp như thế nhất định sẽ làm giảm sự thịnh vượng. Người ta tham gia vào quá trình trao đổi tự nguyện vì cả hai bên đều tin rằng mình được lợi. Đấy chính là nguồn gốc của sự thịnh vượng. Ông nhận xét rằng: “Khi hai người buôn bán với nhau thì chắc chắn là cả hai đều có lợi”. Và ông nói với những người lợi thương: “Giữa hai dân tộc thì cũng thế15

Tự do và tiến bộ

Những đề xuất chính sách của ông cũng mạnh mẽ như thế:

Từ những điều đã trình bày ở trên, xem ra Anh quốc chắc chắn là phải có hải cảng tự do, không được có bất cứ cản trở nào đối với nền ngoại thương, nếu có thể thì chu cấp tiền cho chính phủ bằng những cách khác; thuế nhập khẩu, thuế hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt phải bị bãi bỏ, buôn bán tự do và trao đổi tự do phải được phép áp dụng cho tất cả các nước và tất cả các loại hàng hoá16.

Và với lí lẽ tương tự: “tự do trao đổi” cũng phải được áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa bên trong từng nước.

Một số học giả cùng thời với Smith cho rằng tiến bộ là không thể đảo ngược. Dù sao thì thế giới của họ cũng đang tiến lên. Smith không phải là người lạc quan thái quá. Tiến bộ đòi hỏi phải có một khung pháp lí, đòi hỏi phải có an ninh, tự do và công lí. Nếu không, dân chúng sẽ không còn chăm chỉ nữa. Không nghi ngờ gì rằng chính phủ có vai trò trong việc duy trì tất cả những đòi hỏi nói trên. Nhưng chính phủ không được can thiệp vào quá trình sáng tạo ra của cải và phải bảo đảm rằng những quyền lợi cha truyền con nối không làm méo mó quá trình đó. Một khi được tự do, ước muốn tự nhiên của con người trong việc cải thiện điều kiện sống của chính họ là động lực mạnh mẽ nhất của sự tiến bộ.

Kết luận

Những tác phẩm ít được biết đến hơn của Smith có thể kích thích sự chú ý của độc giả hiện đại vì sự uyên thâm của những tư tưởng hàm chứa trong đó. Trong một tác phẩm, Smith trình bày một cách dễ hiểu và sâu sắc về những mô hình vũ trụ mang tính lịch sử khác nhau; còn trong tác phẩm kia, tác giả so sánh các định chế pháp lí của rất nhiều nước, cả xa lẫn gần nước Anh.

Các tác phẩm đó chứng tỏ rằng Smith vừa là bậc thầy trong nhiều môn khoa học mang tính hàn lâm, vừa là nhà nghiên cứu bản chất của con người. Ông không tin rằng luật pháp, chính phủ, ngôn ngữ, thậm chí khoa học là “nhất thành bất biến”. Trên thực thế, tất cả các định chế đó đều là sáng tạo của tâm trí của con người. Đấy là những hệ thống phức tạp và không nhất thiết là những hệ thống mà chúng ta đã xây dựng nên một cách có chủ ý. Điều làm cho nhà bác học nghiên cứu về bàn tay vô hình ngạc nhiên chính là vì sao mà những hành động của các cá nhân lại hiệp lực với nhau để tạo ra những định chế xã hội hoạt động tốt như vậy.

Chú thích:

(1) Lịch sử thiên văn học, Tiết I.

(2) Lích sử thiên văn học, Tiết II.

(3) Lịch sử thiên văn học, Tiết IV, 8, trang 59.

(4) Lịch sử thiên văn học, Tiết IV, 76, trang 105 (cũng xem trong Tiết II, 12, trang 46)

(5) Các bài giảng về nghệ thuật tu từ và văn chương. Bài 3, V, 19- V. 24 trang 10-11 và Những Suy nghĩ liên quan đến quá trình hình thành đầu tiên của các ngôn ngữ, 12, trang 209.

(6) Các bải giảng về nghệ thuật tu từ và văn chương, Bải 5, V.53, trang 23

(7) Các bài giảng về nghệ thuật tu từ và văn chương, Bải 6.

(8) Trong Nhà xuất bàn Glasgow có hai bản, một bản là ghi chép năm 1762-1763, bản kia năm 1766.

(9) Các bài giảng về luật học, bản ghi năm 1766

(10) Các bài giảng về luật học, bản ghi năm 1762-1763, Bài giảng 24 tháng 12 năm 1762

(11) Karl Marx. Sự khón cùng của triết học, Chương 2. Nhận xết thủ hai.

(12) Các bải giảng về luật học, bản ghi năm 1762-1763, Bài giảng ngày 29 tháng Ba năm 1763, trang 341-2.

(13) Các bải giảng về luật học, bản ghi năm 1762-1763, Bải giảng ngày 29 tháng Ba năm 1763, trang 438

(14) Các bài giảng về luật học, bản ghi năm 1766, trang 487

(15) Các bài giảng về luật học, bàn ghi năm 1766, trang 511. Ông cũng đưa ra quan điểm tương tự trong Báo cáo năm 1762-3, Bài giàng ngày 13 tháng 4 năm 1763, trang 300.

(16) Các bải giảng về luật học, Báo cáo năm 176, trang 514.

Nguồn: Eamonn Butler (2007). Khảo lược Adam Smith. Phạm Nguyên Trường dịch. NXB Tri Thức. Nguyên tác: "Adam Smith-A Primer" (2007)

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường