Sự thịnh vượng của các quốc gia: Lời giới thiệu cho ấn bản tiếng Việt

Sự thịnh vượng của các quốc gia: Lời giới thiệu cho ấn bản tiếng Việt

[Lời giới thiệu cho ấn bản tiếng Việt tác phẩm Sự thịnh vượng của các quốc gia của Adam Smith, Tạ Ngọc Thạch và Phạm Thị Ngọc Trâm dịch, Vũ Hoàng Linh hiệu đính, Nhà sách Nhã Nam và NXB Thế giới] 

Có những tác phẩm kinh điển sống mãi theo thời gian bởi ở mỗi thời đại độc giả lại tìm thấy ở đó những lý lẽ soi rọi hoặc gợi mở giải quyết cho những vấn đề đương đại. Sự thịnh vượng của các quốc gia chắc chắn có một vị trí như vậy trong lịch sử tư tưởng kinh tế. Tôi tin rằng độc giả Việt Nam có thể dễ dàng tìm được những bản giới thiệu, tóm tắt hay phê phán tác phẩm ở đâu đó. Lời giới thiệu của D. D. Raphael trong bản dịch của Đỗ Trọng Hợp hay Khảo lược Adam Smith của E. Butler (Phạm Nguyên Trường dịch) là những chỉ dẫn đáng tham khảo. Độc giả cũng có thể dễ dàng tìm thấy những phê phán Adam Smith từ góc độ của kinh tế chính trị học Marx-Lenin  trong các giáo trình đại học.

Vì thế, trong Lời giới thiệu cho ấn bản tiếng Việt này tôi không muốn lặp lại việc tóm tắt tác phẩm hay viết về cuộc đời và sự nghiệp của Adam Smith. Tôi mong muốn chúng ta sẽ đọc Sự thịnh vượng của các quốc gia từ vị thế của những người của thế kỷ 21, kế thừa sự phát triển của các tư tưởng kinh tế trong 250 năm qua.

Kinh tế học, với tư cách là hệ hình khoa học (scientific paradigm theo chữ dùng của Thomas Kuhn), bao gồm các cấu phần sau. Thứ nhất lý thuyết kinh tế − tập hợp các khái niệm về các hiện tượng kinh tế và các mối quan hệ giữa các khái niệm − được xây dựng một cách nhất quán từ những tiền giả định về bản tính của con người. Thứ hai là các mô hình lý thuyết kinh tế, đóng vai trò như các công cụ phân tích, giúp chúng ta nắm bắt được các khái niệm kinh tế cũng như các mối quan hệ logic giữa chúng. Các nhà kinh tế, do khó có thể xây dựng được phòng thí nghiệm như các nhà khoa học tự nhiên, cần xây dựng các mô hình hình thức biểu diễn giản lược về thế giới thực dựa trên các điều kiện giả định nhất định để hiểu được tốt hơn các lực lượng kinh tế vận động và tương tác với nhau như thế nào. Thứ ba là các diễn giải lịch sử hoặc phân tích thực nghiệm dựa trên các khái niệm và lý thuyết kinh tế. Và cuối cùng là các diễn ngôn chính sách rằng chúng ta nên làm gì để cộng đồng chúng ta đang sinh sống hoặc rộng hơn nữa là thế giới loài người, trở lên tốt đẹp hơn.

Sự thịnh vượng của các quốc gia của Adam Smith được đánh giá là tác phẩm có tầm vóc, mang tính nền móng trong lịch sử phát triển của kinh tế học không phải ở chỗ những ý tưởng kinh tế trong tác phẩm này được đề xuất lần đầu tiên. Phần lớn trong số chúng đã được một số tác gia trước đó trình bày rải rác ở đâu đó.[1] Adam Smith là người có công lao trong việc tổng hợp và đặt chúng vào một công trình tổng thể bao gồm không chỉ hầu hết những hiện tượng kinh tế mà các giáo trình kinh tế hiện đại bao quát mà còn cả tất cả các cấu phần hình thành nên một hệ hình khoa học kinh tế.  

Tuy nhiên, do được tổng hợp một cách chiết trung, các ý tưởng được sắp đặt trong Sự thịnh vượng của các quốc gia không hoàn toàn nhất quán. Ông đã nỗ lực rất nhiều để kết nối các ý tưởng với nhau. Nhưng do các ý tưởng được phát triển từ những cách tiếp cận các hiện tượng kinh tế về bản chất là trái ngược nhau nên việc này là không thể. Đó là lý do khiến cho tác phẩm của ông có nhiều phần đọc rất khó hiểu. Nhưng vì là một tác phẩm có tính bao quát toàn bộ các hiện tượng kinh tế, lại được chắp ghép từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, Sự thịnh vượng của các quốc gia đã từ lâu trở thành một kho tàng các ý tưởng được các nhà kinh tế hậu bối trong nhiều thế hệ ở mọi trường phái trích dẫn như là khởi nguồn cho sự phát triển của trường phái hay lý thuyết của mình.[2]

 

 

*    *     *

 

Trước tiên chúng ta hãy cùng nhìn lại hệ thống lý thuyết kinh tế trong tác phẩm Sự thịnh vượng của các quốc gia. Các hệ thống lý thuyết kinh tế về cơ bản được tiếp cận theo hai hướng. Hướng thứ nhất dựa trên cá thể luận và chủ quan luận, xuất phát từ đánh giá và lựa chọn mang tính chủ quan của các cá nhân vì lợi ích của bản thân, để lý giải sự hình thành các hiện tượng kinh tế. Hướng thứ hai là cách tiếp cận tổng thể luận và khách quan luận, xuất phát từ các khách thể tổng thể như quốc gia, nền kinh tế, ngành v.v., dựa trên các dữ liệu thống kê về các khách thể đó để từ đó tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của chúng[3].

Cách tiếp cận thứ nhất giúp Adam Smith tìm thấy “bàn tay vô hình”, một khái niệm đã làm nên tên tuổi của ông. Bàn tay vô hình, thuật ngữ được ông sử dụng chỉ duy nhất ba lần, trong đó có một lần trong Sự thịnh vượng của các quốc gia,[4] hàm ý rằng tuy các cá nhân hành động vì lợi ích của riêng mình, nhưng nhờ tương tác với nhau thông qua cơ chế thị trường tự do − một cơ chế tạo ra những áp lực vô hình lên tất cả mọi cá nhân tham gia thị trường, dẫn đến mang lại lợi ích cho những người khác mà anh ta không hề định trước.

Cách tiếp cận truy đến bàn tay vô hình giúp Adam Smith giải thích sự mở rộng của phân công lao động trong xã hội trong chương II (Quyển I). Sự phân công lao động rộng khắp như Smith mô tả trong chương I (Quyển I), nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của cải ngày càng nhiều cho xã hội,  không đến từ ý định hoặc khả năng nhìn xa trông rộng của bất kỳ bộ óc thông thái nào (any human wisdom) mà đến từ thiên hướng tự nhiên của con người về sự trao đổi sản phẩm với nhau. Tuyên bố trên được Smith triển khai diễn giải trong những trang đầu của chương II (Quyển I). Dưới đây có lẽ là đoạn văn hay nhất của tác phẩm để chúng ta cảm nhận được về bàn tay vô hình:

“Chúng ta mong chờ bữa tối của mình không phải vì lòng nhân từ của người bán thịt, nhà sản xuất bia hay thợ làm bánh, mà vì chính sự quan tâm của họ đến lợi ích riêng của bản thân. Chúng ta không kêu gọi lòng nhân đạo của họ mà kêu gọi tình yêu bản thân của họ, chúng ta không bao giờ nói với họ về nhu cầu thiết yếu của mình mà phải nói về lợi ích của họ”.

Tiếp đến là sự hình thành tiền tệ như là một phương tiện trao đổi (chương IV, Quyển I). Do nhu cầu trao đổi, con người cần tìm đến một thứ hàng hoá mà mọi người sẵn sàng chấp nhận để đổi lấy những món hàng khác. Bàn tay vô hình chứ không phải là từ một bộ óc thông thái nào giúp cho những cộng đồng lựa chọn ra một loại hàng hoá nào đó phù hợp làm phương tiện trao đổi; đó có thể là vỏ sò, gia súc, vàng, bạc,... hay là bất cứ thứ gì mà đa số mọi người trong cộng đồng chấp nhận.    

Giá cả hàng hoá, giá của các nhân tố sản xuất (giá lao động-tiền công, giá đất đai-tiền tô) và lợi nhuận của vốn đầu tư là những khái niệm có lẽ bị lẫn lộn nhiều nhất giữa cách tiếp cận thứ nhất và cách tiếp cận thứ hai.[5] Về cơ bản Adam Smith đồng nhất giá (tự nhiên) hàng hoá với doanh thu trung bình trên một đơn vị sản phẩm. Tiền công, tiền tô và lợi nhuận của vốn đầu tư được định nghĩa dưới góc độ kế toán như những cấu phần được trích ra từ giá tự nhiên. Có thể thấy, ông chưa nhìn thấy bản chất của giá là mức thay thế cận biên giữa các lượng hàng hoá trao đổi trên thị trường. Ông mới chỉ nhìn thấy chi phí dưới góc độ giá thành mà chưa nhìn thấy chi phí cơ hội. Ông cũng lờ đi bản chất của lợi nhuận gắn với vai trò gánh chịu bất trắc của nhà khởi lập kinh doanh (entrepreneur) mà Cantillon đã phát hiện trước đó. Đây là lý do khiến cho các chương từ V đến XI, Quyển I đọc rất rối rắm, khó hiểu. Có lẽ Adam Smith đã phải vật vã và chán nản khi viết những chương này, điều khiến ông phải cảnh báo độc giả ở đoạn cuối chương IV (Quyển I) khi đọc 3 chương tiếp theo, thể hiện sự thiếu tự tin của ông về những gì mình viết:

“Tôi sẽ cố gắng giải thích một cách đầy đủ và rõ ràng nhất có thể .... Tôi hy vọng người đọc có thể kiên nhẫn và tập trung chú ý... và chú ý để hiểu những gì mà có lẽ vẫn tối nghĩa ở một mức độ nào đó dù cho tôi đã cố gắng đưa ra những giải thích đầy đủ nhất có thể. Tôi chấp nhận mang tiếng là một người tẻ nhạt để chắc chắn rằng tôi làm cho bạn đọc hiểu được vấn đề; sau khi đã cố gắng hết sức để đạt được mục đích của mình, có thể vẫn còn số thứ khó hiểu do bản chất trừu tượng của chúng.”

Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy những “điểm sáng” loé lên theo cách tiếp cận thứ nhất khi Smith nói về giá tự nhiên (natural price), giá thị trường (market price), lợi nhuận-thua lỗ (chương VII, Quyển I).[6] Giá tự nhiên thực chất là giá thành sản xuất hàng hoá; giá thị trường là giá bán hàng hoá thực tế trên thị trường; lợi nhuận/thua lỗ là phần chênh giữa giá thị trường và giá tự nhiên. Giá thị trường được quyết định bởi mối quan hệ giữa số lượng hàng hoá thực tế được đưa ra thị trường (cung) và nhu cầu của những người sẵn sàng trả tiền mua hàng hoá (cầu hiệu lực). Cung thấp hơn cầu, giá thị trường sẽ tăng và ngược lại. Đối với nhà sản xuất, lợi nhuận-thua lỗ là chỉ dấu cho nhà sản xuất quyết định tiếp tục ở lại hay rút lui khỏi thị trường. Bàn tay vô hình thể hiện qua cơ chế cạnh tranh sẽ kéo giá thị trường của tất cả các mặt hàng hướng về một mức giá trung tâm (central price), một khái niệm giống với khái niệm giá cân bằng theo ngôn ngữ kinh tế học hiện đại. Ông cũng lưu ý, tuy giá thị trường luôn hướng về giá tự nhiên, nhưng nếu có những sự kiện bất thường xuất hiện (như thiên tai), có sự hiện diện của hành vi độc quyền trong cung ứng hoặc độc quyền do phát minh sáng chế, hay có các quy định cản trợ sự tham gia thị trường, v.v. thì giá thị trường có thể sẽ duy trì khác biệt với giá tự nhiên trong một thời gian dài.  

Bàn tay vô hình tạo ra một cơ chế tự động giúp cho “tổng sản phẩm hằng năm của đất nước” được phân bổ theo tỷ lệ hợp lý cho tiền công lao động, lợi nhuận của vốn, và tiền địa tô của đất đai, tuỳ theo nhu cầu đối với các yếu tố lao động, vốn và đất đai cho quá trình sản xuất của mỗi hàng hoá. Quá trình cạnh tranh trên thị trường không chỉ kéo giá thị trường về mức giá trung tâm mà còn kéo mức tiền công của người lao động và lợi nhuận của vốn về mức cân bằng ở mọi ngành nghề. Quá trình cạnh tranh cũng sẽ khiến các nhà sản xuất tìm kiếm, khai phá những nơi đất đai còn phì nhiêu nhưng rẻ để trồng trọt, dù là ở xa trung tâm tiêu thụ hàng hoá, chẳng hạn ở những vùng thuộc địa Bắc Mỹ. Smith thảo luận về những nội dung này xuyên suốt trong các chương từ VIII đến chương XI (Quyền I) để chỉ ra xu hướng này dưới tác động của bàn tay vô hình cũng như những hoàn cảnh chính sách giảm tự do cạnh tranh khiến cho tiền công và lợi nhuận của vốn trở nên khác nhau như chúng ta quan sát thấy trên thực tiễn. Dưới đây là một trích đoạn nổi tiếng khác:

Toàn bộ những lợi thế và bất lợi của việc sử dụng lao động và vốn trong cùng một vùng phải hoàn toàn ngang bằng hoặc liên tục hướng đến sự ngang bằng. Nếu trong cùng vùng, có bất kỳ công việc nào rõ ràng là có lợi thế hơn so với các công việc còn lại, rất nhiều người sẽ nhảy vào xin làm việc đó, và rất nhiều người sẽ rời bỏ các công việc khác, nên những lợi thế của các công việc đó sẽ sớm quay trở lại mức lợi thế của các công việc khác. (chương X, Quyển I)

 

Những ý tưởng về lý thuyết tăng trưởng kinh tế dài hạn được thể hiện qua một số chương của Quyển I nhưng tập trung nhất trong Quyển II. Chúng ta đã thấy trong Quyển I, ông đề cập đến phân công lao động phụ thuộc vào quy mô của thị trường (chương III) và tiền công của lao động sẽ tăng cùng với sự gia tăng tích luỹ vốn và sự phát triển chung của nền kinh tế (chương X). Nhưng trong Quyển II ông đã chỉ ra cho chúng ta thấy, cơ chế thị trường tự do cạnh tranh đã giúp cho việc tích luỹ vốn và phân bổ nguồn vốn trở lên hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân như thế nào.

Smith đã mô tả của cải được tạo ra sẽ được tiết kiệm một phần để trở thành vốn (capital), thứ giúp mang lại thu nhập cho người sở hữu nó. Người sở hữu vốn có thể dùng vốn để tự đầu tư sản xuất (dưới dạng vốn lưu động hoặc vốn cố định) từ đó tạo ra lợi nhuận (chương II, Quyển II) hoặc cho vay lấy tiền lãi (chương IV, Quyển II). Trong các loại vốn, Smith đặc biệt chú trọng đến một phần của vốn lưu động tồn tại dưới hình thức tiền. Đây là phương tiện giúp cho các cấu phần khác của vốn lưu động được lưu thông trên thị trường. Tiền chỉ là phương tiện trao đổi và cũng chỉ là một phần của cải của một quốc gia; nó không trực tiếp tạo ra thu nhập nhưng lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong lưu thông hàng hoá và phân phối thu nhập (chương II, Quyển II). Nền sản xuất của một quốc gia chỉ có thể thăng tiến nếu như quốc gia đó tăng tiết kiệm, giảm chi tiêu cho các thứ chưa thật cần thiết, đặc biệt là những nhu cầu xa xỉ, và quản lý hiệu quả hơn, để tăng vốn (cố định và lưu động) cho hoạt động sản xuất (tức là chu cấp được số lượng lao động sản xuất nhiều hơn). Cơ chế thị trường cạnh tranh sẽ khiến cho hai người xuất phát điểm có tài sản tương đương, nhưng người có khả năng tiết kiệm tốt hơn và quản lý hiệu quả hơn sẽ tạo ra lợi nhuận nhiều hơn, và trở lên giàu có hơn; còn kẻ không biết tiết kiệm sẽ làm tiêu tán tài sản được tích luỹ trước đó. Cơ chế thị trường cũng giúp cho vốn được phân bổ cho những cách sử dụng vốn khác nhau (sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, bán buôn và bán lẻ), đến những nơi khác nhau (nông thôn, thành thị, và các quốc gia), sao cho mang lại lợi nhuận tốt nhất cho đồng vốn bỏ ra (chương V, Quyển II; Quyển III).

Cách tiếp cận thứ hai, tức khách quan luận và tổng thể luận, dẫn Adam Smith đến lý thuyết lao động về giá trị (LTV − labor theory of value). Có lẽ khi quan sát thấy mọi sản phẩm được tạo ra bởi con người đều có đóng góp của lao động thế nên ông coi lao động là “nguồn gốc của mọi giá trị”, là thước đo bất biến của giá trị, và là chất liệu tự nhiên gắn kết mọi hiện tượng trong đời sống kinh tế-xã hội với nhau. Thực ra đây là phần đáng quên nhất trong tác phẩm Sự thịnh vượng của các quốc gia[7], nhưng đây có lẽ lại là phần mà các độc giả của Việt Nam quen thuộc nhất khi học môn “kinh tế chính trị Marx-Lenin” ở trường đại học nên tôi không thể không điểm qua.

Điểm khởi đầu dẫn ông đến LTV là việc khi bàn về giá trị, ông đã từ bỏ lý thuyết chủ quan về giá trị đã được thầy của ông Francis Hutcheson và bản thân ông đề cập trong bản thảo chưa công bố trước đó Lectures.[8] Bởi từ bỏ đặc tính chủ quan của giá trị, ông buộc phải tìm đến một thứ mà ông cho là đặc điểm chung của mọi thứ do con người tạo ra, đó là lao động. Dưới đây là một số trích đoạn nổi tiếng trong Sự thịnh vượng của các quốc gia cho thấy Adam Smith chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm chính trong việc đưa LVT vào kinh tế học[9]:

“Vậy, giá trị của bất kỳ loại hàng hóa nào đối với người sở hữu nó, hay người không có ý định tiêu thụ hàng hóa của nó mà dùng nó để trao đổi lấy các hàng hóa khác, chính là bằng với lượng lao động mà người đó có thể mua hoặc sở hữu hàng hóa đó. Vậy, lao động chính là thước đo chân thật về giá trị trao đổi của tất cả các loại hàng hoá.” (chương V, Quyển I)

và ở đoạn ngay phía dưới:

“Giá trị thực sự của mọi vật đối với người đã có nó, muốn bán nó hoặc đổi nó lấy thứ khác, chính là những công sức và cực nhọc anh ta có thể tránh và để người khác chịu thay.” (chương V, Quyển I)

Và ở đoạn tiếp nữa:

“Do đó, bản thân lao động không bao giờ thay đổi giá trị của chính nó, lao động là tiêu chuẩn cao nhất và thực tế duy nhất dùng để ước tính và so sánh giá trị của tất cả các hàng hóa ở mọi lúc và mọi nơi. Lao động là giá thực tế của hàng hóa; tiền chỉ là giá danh nghĩa của hàng hóa.” (chương V, Quyển I)

 

Với LVT, Adam Smith đã quy lợi nhuận của vốn và địa tô của đất đai là phần được trích ra từ sản phẩm lao động. Cụ thể, khi vốn được tích luỹ và được sử dụng để thuê lao động: “Trong trường hợp này, toàn bộ sản phẩm của lao động không phải lúc nào cũng thuộc về người lao động. Trong hầu hết các trường hợp, người lao động phải chia sẻ sản phẩm của lao động với người đã bỏ vốn để thuê anh ta làm việc.” (chương VI, Quyển I) và “Sau khi đất đai đã bị tư hữu, người lao động phải trả tiền để được phép gặt hái những sản phẩm trong tự nhiên, và phải trả cho chủ nhà một phần những sản phẩm mà mình trồng được hoặc gặt hái được.” (chương VI, Quyển I). LVT cũng có thể coi là nguồn dẫn ông đến phân biệt giữa lao động sản xuất với lao động phi sản xuất (chương III, Quyển II), với hệ quả là ông coi những người làm trong lĩnh vực dịch vụ không đóng góp gì vào việc tạo ra sản phẩm xã hội. Cách nhìn của Adam Smith đối với người sở hữu vốn, chủ đất và người lao động trong lĩnh vực dịch vụ từ nền tảng LVT là cội rễ để các nhà xã hội chủ nghĩa thế kỷ 19 coi họ là “tầng lớp bóc lột” hay “tầng lớp ăn bám” xã hội.

LVT cũng là lực cản kéo Adam Smith không thể đi xa hơn trong lý thuyết về tiền tệ. Mặc dù Smith đã nhìn thấy khi “cung tiền” tăng lên do sản lượng vàng và bạc khai thác được ở Tân thế giới khiến cho giá thị trường của các loại hàng hoá ở châu Âu tăng lên (phần III, chương 11, Quyển I), nhưng cách giải thích của ông lại là vì giá trị của vàng và bạc giảm do “việc khai thác những loại kim loại này và đưa chúng ra thị trường tốn ít sức lao động hơn, nên lượng lao động mà chúng có thể mua và sở hữu được trên thị trường ít hơn trước” (chương V, Quyển I). Ở trong chương II, Quyển II, rõ ràng ông đã thấy có gì đó gờn gợn khi các ngân hàng phát hành tiền giấy nhiều hơn so với lượng vàng và bạc dự trữ mà nó thay thế trong lưu thông, nhưng ông lại gượng ép giải thích rằng khi điều này xảy ra, những người sử dụng tiền giấy sẽ nhận biết ngay tức thì và quay trở lại ngân hàng để đổi tiền giấy ra vàng và bạc, dẫn đến “Toàn bộ số tiền giấy các loại có thể dễ dàng lưu thông ở bất kỳ quốc gia nào không bao giờ có thể vượt quá giá trị của vàng và bạc mà số tiền giấy dùng để thay thế , hoặc ... vàng bạc lưu thông nếu không có tiền giấy”.

 

*   *    *

 

Cấu phần thứ hai trong hệ hình kinh tế học, tức phần liên quan đến các mô hình phân tích kinh tế, không được Adam Smith chú trọng xây dựng. Tuy nhiên, với những mô tả lý thuyết về xu hướng quy về “giá tự nhiên” cũng như xu hướng tỷ lệ lợi nhuận cân bằng do áp lực của bàn tay vô hình, Sự thịnh vượng của các quốc gia là nguồn cảm hứng để các nhà kinh tế hậu bối xây dựng các mô hình phân tích kinh tế như mô hình cân bằng tổng quát (Walras), mô hình tăng trưởng mới (new growth theory), phương pháp đo lường GDP, v.v. Do Adam Smith đóng góp không nhiều vào cấu phần này,[10] trong phần còn lại này của bài giới thiệu, tôi chú trọng vào hai cấu phần còn lại của hệ hình kinh tế học: nghiên cứu lịch sử và diễn ngôn chính sách.

Với các nhà nghiên cứu kinh tế ngày nay, hai cấu phần này trong Sự thịnh vượng của các quốc gia có lẽ là những nội dung hữu ích và thú vị hơn cả. Smith thường xuyên sử dụng các ví dụ lịch sử để minh họa cho các luận điểm kinh tế. Chúng ta có thể tìm thấy ở mọi chương, sau các phân tích lý thuyết là các ví dụ minh hoạ từ thời La Mã cổ đại cho đến thời đại của ông, từ nước Anh cho đến Tân thế giới, các nước vùng Địa Trung Hải, châu Phi, Ấn Độ, Trung Quốc v.v. Chúng ta có thể tìm thấy những đoạn mô tả rất chi tiết về đời sống, công việc, thu nhập của các tầng lớp xã hội khác nhau như người giàu, người nghèo, người sống ở thành thị, người sống nông thôn, người nô lệ, tá điền, người lao động tự do, thợ mộc, thợ dệt, thợ rèn, thợ mỏ, thuỷ thủ, người bán tạp phẩm, nhà buôn, điền chủ v.v.  Chúng ta cũng tìm thấy những mô tả chính sách rất chi tiết liên quan đến những quy định về nghề nghiệp ở châu Âu (chương X, Quyển I), những quy định về hoạt động ngân hàng ở Anh và Scotland (chương II, Quyển II), những quy định về sản xuất nông nghiệp ở châu Âu (Quyển III), và những quy định về xuất nhập khẩu và hàng hải (Quyển IV).

Có lẽ ông là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu định lượng để xem xét mối quan hệ giữa các loại giá cả theo chuỗi thời gian. Để minh hoạ cho luận điểm, nhờ cải thiện năng suất chăn nuôi, giá thịt giảm so với giá bánh mì, ông đã thu thập dữ liệu của hai loại giá này trong một thế kỷ ở Anh (phần I, chương XI, Quyển I). Hay để so sánh  giá trị của bạc với giá trị của các loại ngũ cốc theo chuỗi thời gian, ông đã thu thập dữ liệu về giá của các hàng hoá này trong bốn thế kỷ ở nhiều quốc gia khác nhau, từ các nguồn đã được công bố lẫn chưa được công bố. Ông đã đưa ra những bằng chứng rất thuyết phục để chỉ ra rằng khi nguồn cung bạc tăng sẽ gây ra “lạm phát”, tức giá của nó giảm tương đối so với giá của hầu hết các hàng hoá khác.

Chúng ta cũng tìm thấy những phân tích thể chế rất thú vị ở Quyển III. Có thể tìm thấy rất nhiều dữ kiện lịch sử sống động ở quyển này, và thứ xâu chuỗi những dữ kiện lịch sử chính là sức mạnh của bàn tay vô hình thị trường tự do. Dù bị chèn ép và cấm cản, nhưng bất cứ khi nào và nơi đâu có sự hiện diện của kinh tế thị trường, các cá nhân sẽ tìm cách gia tăng lợi ích của mình thông qua trao đổi và dần dần mang lại kết quả gián tiếp là thịnh vượng chung cho cả cộng đồng, từ đó hình thành nên các thiết chế mới, loại bỏ các thiết chế cũ, củng cố cho sự hiện diện của nó. Ông đã chỉ ra luật thừa kế của người con trai trưởng và chế độ nô lệ đã dẫn đến tình trạng ruộng đất bị bỏ hoang dù có chủ ở châu Âu thời cổ đại. Đất đai được phân chia cho giới quý tộc, địa chủ và được chuyển nguyên vẹn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những người chủ đồn điền này có quyền lực độc đoán, duy trì luật lệ trong lãnh địa của mình. Họ không có động lực canh tác ruộng đất, trong khi lại tìm mọi cách để mở rộng phạm vi lãnh địa. Nô lệ trong các đồn điền không có động lực canh tác vì họ không có quyền tài sản. Đây là nguyên nhân dẫn đến nền nông nghiệp trì trệ trong thời kỳ này. Chỉ đến khi xuất hiện lực lượng tá điền Metayers ở Pháp, thông qua hình thức giao kèo với điền chủ về phân chia sản phẩm trồng trọt, và đặc biệt khi luật lệ nước Anh cho phép và bảo vệ tài sản của các tá điền thuê đất dài hạn (thậm chí suốt đời) từ các điền chủ vào thế kỷ 15 thì nền nông nghiệp ở những quốc gia này mới dần khởi sắc, bứt phá ra khỏi tình trạng trì trệ chung ở châu Âu, bởi khi đó các tá điền mới thấy có động lực đầu tư tiền của và công sức của mình để cải tạo đất đai.

Những quy định mang tính tự do hơn và đảm bảo quyền tài sản tốt hơn của nhà vua cho thị dân ở các thành thị châu Âu từ thế kỷ thứ 12 trở đi đã mở ra cơ hội cho sự phát triển của các đô thị trên khắp châu Âu. Do chế độ hà khắc của các lãnh chúa ở vùng nông thôn, nhiều nông dân đã chạy trốn, ẩn náu ở các đô thị và dần dần trở thành người tự do. Quá trình di dân này cũng là nguyên nhân dẫn đến các đô thị ngày càng mở rộng. Sự phát triển của thành thị thúc đẩy phân công lao động và chuyên môn hoá. Các ngành nghề thủ công dần dần phát triển ở các đô thị. Họ lập ra các phường hội để đào tạo tay nghề cho các hội viên cũng như bảo vệ quyền lợi của họ. Kết quả là quy mô sản xuất của các xưởng sản xuất ở thành thị ngày càng mở rộng. Hàng hoá sản xuất dư thừa, không tiêu thụ hết ở khu vực thành thị, sẽ được mang về các vùng nông thôn trao đổi lấy lương thực. Quá trình trao đổi này giữa nông thôn và thành thị tạo động lực cho nông dân ở nông thôn đầu tư nhiều hơn vào cải tạo đất đai để có được nhiều sản phẩm cung cấp cho thành thị. Hơn nữa, để ít phụ thuộc vào lương thực cung cấp từ nông thôn, các đô thị ở ven biển hoặc các con sông có nhiều thuyền bè đi qua có thể giao thương buôn bán với những vùng xa xôi khác. Đó chính là lý do dẫn đến các đô thị lớn đều mọc lên ở những nơi có giao thông đường thuỷ thuận tiện.

Diễn ngôn chính sách kinh tế, hay còn gọi là kinh tế chính trị, đã được Adam Smith trình bày tập trung trong Quyển IV và Quyển V. Tinh thần tự do kinh doanh và nhà nước tối thiểu, hạn chế can thiệp vào các hoạt động kinh tế của người dân, được ông thể hiện xuyên suốt trong những phần này. Dựa trên phân tích của cải của một quốc gia là tổng sản phẩm được tạo ra bởi người dân của quốc gia đó chứ không phải là lượng tiền bạc tích trữ, ông đã phê phán phái trọng lợi thương chỉ hướng đến xuất khẩu và ngăn cản nhập khẩu hàng hoá giữ được lượng vàng, bạc lại trong nước càng nhiều càng tốt. Dỡ bỏ rào cản nhập khẩu, các hình thức trợ cấp sản xuất, và tháo bỏ gông cùm cho thuộc địa,  mới giúp quốc gia nhập khẩu được những sản phẩm rẻ hơn và tốt hơn và dành nguồn lực cho sản xuất những thứ mà quốc gia có khả năng làm tốt nhất, để có thể đem phần không tiêu thụ hết ở trong nước đi trao đổi. Đây chính là luận điểm lợi thế thương mại tuyệt đối theo cách gọi của kinh tế học hiện đại.

Vài trò của chính phủ rốt cuộc chỉ nên tập trung vào những vấn đề quan trọng sống còn của đất nước, đó là bảo vệ an ninh-quốc phòng, xây dựng chế độ pháp quyền và thực thi công lý, và cung cấp các công trình công cộng như đường sá, cầu cống, hải cảng, v.v. để tạo thuận lợi cho thương mại và thúc đẩy giáo dục. Để trả công cho việc thực hiện tốt những chắc năng này, chính phủ cần phải thu một số loại thuế. Ông đã đề xuất 4 nguyên tắc thuế khoá nổi tiếng mà các chính phủ ngày nay hoàn toàn có thể học hỏi. Đó là: (i) Nguyên tắc công bằng: thuế nên được đánh theo tỷ lệ thu nhập, người có thu nhập cao hơn phải trả nhiều thuế hơn; (ii) Nguyên tắc chắc chắn: số tiền thuế, thời gian và phương thức nộp thuế phải rõ ràng, minh bạch và dễ hiểu đối với người nộp thuế. Mỗi người dân phải biết chính xác mình phải đóng bao nhiêu, vào lúc nào và bằng cách nào, tránh sự tùy tiện hoặc lạm quyền của cơ quan thu thuế; (iii) Nguyên tắc tiện lợi: thời điểm và phương thức thu thuế nên thuận tiện nhất cho người nộp thuế. Điều này giúp giảm bớt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện nghĩa vụ thuế một cách tự giác và dễ dàng; và (iv) Nguyên tắc kinh tế: Chi phí cho việc thu thuế phải được giữ ở mức thấp nhất có thể, tức là không nên để chi phí thu thuế vượt quá số tiền thu được, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.

Độc giả có thể nhận thấy những diễn ngôn chính sách mà Adam Smith viết cách đây gần 250 năm vẫn rất gần gũi với bối cảnh kinh tế chính trị hiện nay với mọi quốc gia và nền kinh tế toàn cầu. Dù thời điểm ông sống mới ở những năm đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, còn chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhưng chúng ta vẫn đang phải đối diện với những câu hỏi hoàn toàn không mới như: Tại sao chỉ có một số ít quốc gia trở lên thịnh vượng (theo ngôn ngữ hiện nay là vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” để trở thành nước phát triển)? Thúc đẩy thương mại tự do hay hạn chế xuất nhập khẩu để bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ thì tốt hơn? Nhà nước nên hỗ trợ phát triển ngành nào, hạn chế ngành nào? Có cần thiết ban hành các quy định ngành nghề để bảo vệ sức khoẻ, an toàn, v.v. của người tiêu dùng không? Nên triển khai chính sách thuế nào? Làm thế nào để khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy năng suất lao động? Tôi tin rằng các nhà kinh tế, các nhà làm chính sách vấn có thể tham khảo những giải pháp mà Adam Smith đưa ra từ triết lý “bàn tay vô hình” để đưa ra lời giải đáp hợp lý cho nhưng câu hỏi đó trọng bôi cảnh của thời đại chúng ta. 

 

[1] Trong bài giới thiệu này tôi không có ý định viết về những chất liệu tư tưởng, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm nên tác phẩm này của Adam Smith. Độc giả có thể tham khảo chi tiết trong Schumpter, J. (1954), History of Economic Analysis, Routledge; Rothbard, M. (1995), Economic Thought Before Adam Smith: An Austrian Perspective on the History of Economic Thought, Volume I, Ludwig von Mises Institute.

[2] Điều này đã được A. Marshall chỉ ra “Hiếm có chân lý kinh tế nào được biết đến ngày nay mà ông ấy [Smith] đã không có cái nhìn thoáng qua”. Điều tương tự cũng được quan sát bởi Viner (1928): “Dấu vết của mọi loại học thuyết có thể hình dung được đều có thể tìm thấy trong cuốn sách mang tính phổ quát nhất đó, và một nhà kinh tế học phải có những lý thuyết thật dị biệt nếu không thể trích dẫn từ Sự thịnh vượng của các quốc gia để ủng hộ cho các mục đích đặc biệt của mình” (tr.126). Hai trích dẫn trên của Marshall và Viner được trích lại từ Schumpter, J. (1954), History of Economic Analysis, Routledge.

Tuy nhiên, điều này không hẳn là tốt từ góc độ phát triển của chuyên ngành kinh tế học. Do sự nổi tiếng của tác phẩm này, khiến cho các nhà kinh tế hậu bối, cho tới tận thập niên 1870, đã bỏ qua nhánh lý thuyết chủ quan về giá trị ở châu Âu nội địa, đặc biệt là nhà kinh tế vĩ đại Richard Cantillon (1680-1774). Tác phẩm  Essai sur La nature du commerce en general (lưu hành dưới dạng thủ bản trong các thập niên 1730-1740 và được công bố chính thức năm 1755). Mãi đến thập niên 1870, nhà kinh tế Stanley Javons mới khai tìm ra. Tác phẩm này được các tác gia sau này như  J. Schumpeter và F.A. Hayek đánh giá là tác phẩm kinh tế học hiện đại hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử phát triển của lĩnh vực khoa học này. Độc giả có thể tìm đọc bản dịch tiếng Anh (bản pdf) mới nhất của tác phẩm này dưới nhan đề An Essay on Economic Theory do Mises Institute xuất bản năm 2010 để tự đánh giá về tầm vóc của nó.

[3] Xem Hayek, F.A. (2017). Cuộc cách mạng ngược trong khoa học: các nghiên cứu về sự lạm dụng lí tính. Đinh Tuấn Minh và cộng sự dịch. NXB Tri Thức.

[4] Đây là đoạn trích trong tác phẩm có cụm từ này: “Thực ra, anh ta không có ý định thúc đẩy lợi ích công cộng, cũng như không biết anh ta đang hỗ trợ nó đến mức nào. Bằng cách lựa chọn hỗ trợ ngành công nghiệp trong nước thay vì ngành công nghiệp nước ngoài, anh ta chỉ có ý định bảo đảm an ninh cho riêng mình ... và trong trường hợp này, cũng như nhiều trường hợp khác, anh ta được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình để thúc đẩy một kết cục không nằm trong ý định của anh ta.” (phần đầu chương II, Quyển IV)

Trước đó, Adam Smith lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ này trong tác phẩm Lịch sử thiên văn học, khi ông đề cập đến “bàn tay vô hình của thần Jupiter” để cho phép con người lý giải những hiện tượng bất thường, khó hiểu của thiên nhiên. Lần thứ hai trong tác phẩm Lý thuyết về những cảm nhận đạo đức, khi ông chỉ hành động vị kỉ của những người giàu có tiêu thụ những hàng hoá xa xỉ phẩm, do “bàn tay vô hình” (của Chúa trời), lại trở thành một phương thức tái phân phối của cải cho người nghèo.

Có thể thấy, ý niệm “bàn tay vô hình” như là cơ chế thị trường tự do thực ra được các nhà kinh tế sau này diễn giải dựa trên rất nhiều đoạn trong tác phẩm của ông chứ không phải từ ngữ cảnh những lần Adam Smith sử dụng thuật ngữ này. Xem chương VI, Hayek, F.A. (1967), Studies In Philosophy, Politics And Economics, NXB Simon & Schuster, New York; chương VI, Butler, E. (2007), Khảo lược Adam Smith, Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Tri Thức (2007).

[5] Những nhà nghiên cứu về Adam Smith không hiểu vì sao Smith lại không khai triển lý thuyết chủ quan về giá trị trong tác phẩm Sự thịnh vượng của các quốc gia dù rằng thầy của ông Francis Hutcheson và bản thân ông trong tập Lectures viết trong những năm 1762-63 đều đã đi theo hướng này, theo đó giá trị và giá thị trường của hàng hoá được quyết định bởi độ hữu ích (utility) và độ khan khiếm (scarcity) của nó. Cụ thể Smith đã từng viết trước đó trong Lectures về giá thị trường của hàng hoá dựa trên "Đầu tiên, nhu cầu, hay nhu cầu về hàng hóa. . . . Thứ hai, sự phong phú hay khan hiếm của hàng hóa theo tỷ lệ với nhu cầu về nó. . . . Thứ ba, sự giàu có hay nghèo đói của những người có nhu cầu.” (First, the demand, or need for the commodity. . . . Secondly, the abundance or scarceness of the commodity in proportion to the need of it. . . . Thirdly, the riches or poverty of those who demand. . ", xem Robertson, H.M. và W.L. Taylor, 1957, “Adam Smith's Approach to the Theory of Values”, The Economic Journal, Vol. 67, No. 266).

[6] Đây là chương mà J. Schumpeter đánh giá là phần tốt nhất trong tác phẩm của anh xét trên phương diện lý thuyết kinh tế, là chất liệu để các nhà kinh tế hậu bối như J. B. Say và L. Walras phát triển lý thuyết cân bằng (Schumpeter, 1954, History of Economic Analysis, Routledge, tr. 189).

[7] Douglas (1928), khoảng 150 năm sau khi Sự thịnh vượng của các quốc gia được xuất bản, đã gợi ý: “Những đóng góp của Adam Smith cho lý thuyết về giá trị và phân phối không lớn, và ở thời khắc kỷ niệm việc xuất bản Sự thịnh vượng của các quốc gia, có vẻ như là khôn ngoan khi chúng ta bỏ qua những chủ đề này trong sự im lặng kín đáo và thay vào đó nên dành thời gian cho các thảo luận về chẳng hạn phân công lao động, nơi thể hiện tài năng thực sự của ông” (tr. 77). Douglas, Paul H. (1966 [1928]), “Smith’s Theory of Value and Distribution”. Trong: Adam Smith 1776-1976. New York, NY: Augustus M. Kelly.

[8] Trong Sự thịnh vượng của các quốc gia, ông viết: “Cần phải thấy được từ GIÁ TRỊ có hai nghĩa khác nhau, đôi khi từ này thể hiện sự hữu dụng của một số hàng hóa cụ thể và đôi khi là thể hiện sức mua hàng hóa khác thông qua việc sở hữu loại hàng hóa này. Nghĩa đầu tiên là “giá trị sử dụng”; nghĩa thứ hai là “giá trị trao đổi”. Những thứ có giá trị sử dụng lớn nhất thường ít hoặc không có giá trị trao đổi; và ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi lớn nhất thường ít hoặc không có giá trị sử dụng. Không có gì hữu ích hơn nước; nhưng khó lòng dùng nước để  mua bất cứ thứ gì; mà cũng chẳng có thứ gì khác mà có thể dùng để đổi lấy nước cả. Trái lại, một viên kim cương hầu như không có bất kỳ giá trị sử dụng nào; nhưng lại thường xuyên có thể đổi được một lượng lớn các loại hàng hoá khác.” (chương IV, Quyển I). Không hề có bất kỳ ý niệm nào về khan hiếm khi đề cập đến giá trị ở đoạn này! Trong khi ở Lectures, Adam Smith viết: “Chỉ vì nước có nhiều nên mới có giá thành rẻ, và vì kim cương khan hiếm... nên chúng mới đắt như vậy” (It is only on account of the plenty of water that it is so cheap as to be got for the lifting, and on account of the scarcity of diamonds ... that they are so dear) (trích lại từ Rothbard, 1995, tr. 449).

[9] Nhiều tác gia quy nguyên gốc lý thuyết lao động về giá trị cho John Locke (1632-1704). Đây là một đánh giá sai lầm vì Locke thực chất xây dựng lý thuyết lao động về nguồn gốc của tư hữu. Một mảnh đất khi chưa được con người khai phá, tức chưa được “hoà công với sức lao động”, là đất hoang. Khi có sức lao động hoà vào, mảnh đất đó thuộc về sở hữu tư (xem thêm Rothbard, 1995, Economic Thought Before Adam Smith, Vol. 1,  tr. 472, chú thích 17).

[10] Điều này không có nghĩa là Adam Smith không sử dụng phương pháp “thí nghiệm tư duy” (thought experiments) trong các phân tích của mình, vốn được nhiều triết gia hay sử dụng. Trong tác phẩm Sự thịnh vượng của các quốc gia, ông nhiều lần sử dụng phương pháp giả-lịch-sử (pseudo-historical methods) để trình bày lập luận của mình. J. Schumpeter đã chỉ ra điểm này như sau: “A. Smith thường xuyên sử dụng phương pháp trình bày mang tính giả-lịch-sử: chúng thường bắt đầu, khi giải thích một hiện tượng xã hội như quyền sở hữu hoặc tiền tệ, từ một “trạng thái sơ khai” tưởng tượng (imaginary) của xã hội” (Schumpeter, J. (1954), , History of Economic Analysis, Routledge, tr. 106).