[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 9: Những tư tưởng gia vĩ đại ủng hộ chủ nghĩa tư bản
Trường phái Salamanca (“Phái kinh viện”)
Tài sản, cung và cầu, tiền lãi
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, các giáo sĩ Tây Ban Nha đã tạo ra một số bước đột phá trong nhận thức về kinh tế học, làm cho chủ nghĩa tư bản tương thích với Kinh thánh Kitô giáo – trước đó người ta thường cho rằng Kinh thánh bài xích hoạt động kiếm lời. Ví dụ: người đầu tiên trong số những người được gọi kinh viện, ngài Francisco de Vitoria (1483–1546), đã được các thương gia tham vấn – họ lo lắng về cách thức Chúa và Giáo hội nhìn nhận công việc buôn bán của mình. Vitoria suy nghĩ về vấn đề này và đưa ra kết luận nói rằng con người, hàng hóa và ý tưởng di chuyển tự do là một phần của Tự nhiên, là sự sáng tạo của Chúa. Do đó hoạt động buôn bán của các thương nhân không phải là xấu xa, mà trên thực tế, họ phục vụ lợi ích chung.
Kinh thánh chỉ trích việc cho vay nặng lãi - tính lãi trên các khoản vay. Nhưng trong giai đoạn của Phái kinh viện, Phục hưng đã mang lại nhiều cơ hội cho hoạt động kinh doanh, và nguồn vốn vay trở thành rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh và thương mại. May mắn là, Phái kinh viện đã tìm ra nhiều biện pháp nhằm biện minh cho tiền lãi.
Họ lưu ý rằng người đi vay được lợi; tiền lãi là một khoản thanh toán – là khoản bảo hiểm - cho những trường hợp rủi ro khi khó hoàn trả được khoản vay; đấy là một trong những “chi phí cơ hội” của người cho vay, vì có nhiều cách thức khác có thể sử dụng khoản tiền đó; và chính tiền cũng là một loại hàng hóa, cho nên người ta phải trả tiền để vay nó, tương tự như thuê bất kỳ hàng hóa nào khác.
Phái kinh viện còn bảo vệ tài sản tư. Họ khẳng định rằng tài sản tư kích thích hoạt động kinh tế và do đó, gia tăng thịnh vượng. Người ta cũng cũng chăm sóc cẩn thận tài sản của mình chứ không muốn chia sẻ với người khác, nghĩa là những tạo vật của Chúa được người ta trân qúy hơn. Họ kết luận rằng các cá nhân có quyền sở hữu và hưởng lợi từ tài sản của mình tạo ra - trừ những trường hợp khẩn cấp, khi họ có nghĩa vụ chia sẻ với những người đang cần.
Phái kinh viện thậm chí còn nhận thức được vai trò trọng của cung và cầu. Họ thấy rằng ở những nước không có kim loại quý thì giá ở đó cao hơn. “Giá cả chính đáng” (just price) của một món hàng không đơn giản là chi phí sản xuất và vận chuyển nó - có thể nào cùng một kiện vải lanh lại có thể có giá trị hơn vì nó được vận chuyển bằng đường bộ với chi phí cao thay vì được vận chuyển bằng đường biển với chi phí thấp? Giá cả phụ thuộc vào tương tác giữa cung và cầu – đấy là nói nếu thị trường được tự do và cởi mở.
Adam Smith (1723−90)
Lợi ích của chuyên môn hóa, buôn bán và thương mại tự do
Nhà triết học người Scotland quay sang làm nhà kinh tế học Adam Smith, nổi tiếng với tác phẩm Của cải của các quốc gia (1776). Trong tác phẩm này Adam Smith liên kết những ý tưởng của chính mình và của nhiều tác giả khác để hình thành một cách tiếp cận kinh tế học hoàn toàn mới, có hệ thống và mang tính hiện đại. Tác phẩm này đả kích chủ nghĩa trọng lợi thương đang thịnh hành vào thời đó, tức là đả kích đánh giá sự thịnh vượng của quốc gia bằng kho dự trữ vàng và bạc của quốc gia đó, đồng thời trợ cấp nhằm tối đa hóa doanh số xuất khẩu và dùng thuế xuất nhập khẩu nhằm chặn hàng nhập khẩu. Smith chỉ ra rằng thương mại làm cho cả hai bên đều được lợi. Thật vậy, cả hai bên đều sẽ không nghĩ tới giao dịch trừ khi nó làm cho họ cùng giàu có thêm. Đúng là người bán nhận được tiền: nhưng người mua nhận được món hàng mà họ đánh giá cao hơn số tiền mà họ phải trả.
Smith rút ra kết luận nói rằng, không phải số tiền mà quốc gia nắm giữ, mà quy mô sản xuất, buôn bán và thương mại của quốc gia đó - ngày nay chúng ta gọi là tổng sản phẩm quốc gia hay GDP – mới làm cho đất nước giàu có lên.
Ông nhận xét rằng chúng ta có thể tăng đáng kể sản phẩm bằng cách chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho chúng ta trở thành những người lành nghề và có năng suất cao hơn - thậm chí năng suất còn cao hơn nếu chúng ta đầu tư vào hàng hoá vốn chuyên dụng, ví dụ như công cụ và thiết bị. Bằng cách trao đổi các sản phẩm của chúng ta với những người khác, ở trong và ngoài nước, tăng năng suất do chuyên môn hóa và đầu tư làm cho tất cả chúng ta đều được lợi.
Smith khẳng định rằng, nơi nào có tự do thương mại và cạnh tranh, thì thị trường đều hướng nỗ lực và nguồn lực tới những người sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất và đưa thành phẩm tới những người cần chúng nhất. Đó là hệ thống có tính hợp tác cao, nhưng nó chỉ thu được thành công ở nơi mà người ta được tự do hành động, thương mại tự do và cạnh tranh cởi mở. Smith kịch liệt phê phán chủ nghĩa tư bản thân hữu - các nhà sản xuất sẽ gây áp lực lên các chính trị gia nhằm giành độc quyền hay những khoản ưu đãi đặc biệt.
Ông rút ra kết luận: chính phủ không nên can thiệp vào đời sống kinh tế, ngoài việc duy trì cấu trúc tạo điều kiện cho nó hoạt động.
David Ricardo (1772−1823)
Lợi thế tương đối và năng suất lao động
Là nhà đầu cơ và môi giới chứng khoán thành công ở London (có người nói rằng ông đã kiếm được 1 triệu bảng Anh trong vụ đánh cược rằng Anh sẽ giành chiến thắng ở Waterloo), Ricardo bắt đầu suy nghĩ về kinh tế học sau khi đọc tác phẩm Của cải các quốc gia do Adam Smith chấp bút. Ông đã tạo được những bước tiến lớn trong lý thuyết về tiền thuê, tiền công, lợi nhuận, thuế khoá và giá trị.
Về chính sách thương mại, ông bác bỏ các biện pháp bảo hộ, ví dụ như Luật ngô, hạn chế nhập khẩu lúa mì; và ông xây dựng được “lý thuyết về chi phí so sánh” (hiện nay gọi là lý thuyết về lợi thế tương đối) – người ta biết đến ông nhiều nhất là do lý thuyết này. Ông nói rằng, các quốc gia có thể làm cho mình trở thành giàu có hơn bằng cách chuyên sản xuất những sản phẩm mà họ có thể sản xuất tương đối rẻ hơn các quốc gia khác – trong so sánh tất cả những sản phẩm khác mà họ có thể sản xuất được. Ngay cả khi một quốc gia có thể sản xuất mọi thứ rẻ hơn so với quốc gia khác, thì chuyên môn sản xuất những mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế so sánh - chứ không nhất thiết sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối.
Ví dụ trong thời hiện đại: một ngôi sao điện ảnh nổi tiếng có thể tình cờ trở thành người nấu ăn giỏi hơn đầu bếp của xưởng phim. Tuy nhiên, mặc dù có lợi thế tuyệt đối so với người đầu bếp, hãng phim sẽ được lợi khi giữ ngôi sao của mình ở lại phim trường, nhằm khai thác lợi thế so sánh về tài năng và sự nổi tiếng của diễn viên, chứ không đưa người này xuống làm bếp. Nguyên tắc này vẫn là một trong những nền tảng chính của luận cứ về thương mại tự do.
Ludwig von Mises (1881−1973)
Bản chất của vốn; phê phán chủ nghĩa xã hội; lợi ích của chính sách tự do kinh doanh
Mises trở thành nhân vật hàng đầu trong “Trường phái kinh tế học Áo”, ông nhấn mạnh tính phức tạp của các hiện tượng kinh tế và vai trò quan trọng của giá trị chủ quan và hành động của hàng triệu người đối với kết quả chung của toàn xã hội. Ví dụ, không phải tổng giá trị mà cấu trúc của vốn mới là quan trọng – chính xác là người ta đầu tư vào những hàng hoá vốn nào và những hàng hoá vốn đó phối hợp với nhau hiệu quả đến mức nào. Cấu trúc này rất tinh tế: ví dụ, chính sách lãi suất sai lầm bóp méo thị trường, làm cho dân chúng đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất sai lầm – đầu tư sai lệch – dẫn đến thất bại và thua lỗ.
Ở những nơi mà các thị trường bị loại bỏ hoàn toàn – như trong chế độ cộng sản chủ nghĩa - đầu tư duy lý trở thành bất khả thi. Nếu không có giá cả, thì không ai có thể tính toán được những quy trình sản xuất nào trong số nhiều quy trình sản xuất có thể thực hiện được là có hiệu quả nhất về chi phí. Chắc chắn là, các nguồn lực sẽ được đầu tư vào những quy trình sản xuất sai lầm, dẫn đến lãng phí và kém hiệu quả, và cùng với thời gian những sai lầm này sẽ tích tụ lại, vì sẽ không có áp lực thị trường nhằm loại bỏ chúng.
Mises ủng hộ mạnh mẽ chính sách tự do kinh doanh. Ông khẳng định rằng, ngay khi các chính phủ bắt đầu có những chính sách kiểm soát và quy định nhằm ngăn chặn hệ thống thị trường là họ đã tạo làn sóng hổn loạn (thừa và thiếu), nó lan tràn từ thị trường này sang thị trường khác, như gợn sóng khi ném hòn đá xuống ao, làm méo mó hết thị trường này đến thị trường khác. Trong khi tìm cách hạn chế thiệt hại, chính phủ lại can thiệp sâu hơn, và làm cho mọi thứ thậm chí còn tệ hơn nữa.
F. A. Hayek (1899−1992)
Trật tự tự phát; phê phán kế hoạch hoá; phối hợp của thị trường
Hayek xuất thân từ thành phố Vienna, là học trò của Ludwig von Mises, đã cộng tác với thầy mình trong các công trình nghiên cứu về các chu kỳ kinh doanh bùng nổ-suy thoái, và rút ra kết luận nói rằng những chu kỳ này là do các ngân hàng trung ương áp đặt lãi suất quá thấp, khuyến khích vay mượn và chi tiêu quá mức. Nhưng lãi suất thấp lại không khuyến khích tiết kiệm, và khi tiền của những người cho vay cạn kiệt thì các nhà đầu tư đứng trước khủng hoảng về tín dụng, họ phải thanh lý những khoản đầu tư quá lạc quan, họ sẽ bị mất vốn và sa thải công nhân.
Một trong những quan điểm thấu triệt quan trọng của Hayek là khái niệm về trật tự tự phát. Xã hội loài người và các loài động vật cho thấy một cách rõ ràng những hiện tượng thường hiện này. Đúng là, không ai lập kế hoạch buộc loài ong phải sống như thế nào, cách con người sử dụng ngôn ngữ thì cũng thế. Những trật tự như thế phát sinh một cách tự nhiên và tồn tại trong thời gian dài vì chúng có ích. Thường thì chúng ta thậm chí không thể nói rõ các quy tắc (ví dụ như các quy tắc ngữ pháp) làm nền tảng cho những trật tự này. Và vì chúng ta không hiểu một cách đầy đủ cách thức hoạt động của những trật tự tự nhiên như thế, cho nên phải là kẻ rất kiêu ngạo thì mới dám tưởng tượng rằng chúng ta có thể làm tốt hơn – ví dụ như chúng ta có thể từ bỏ cơ chế giá cả và áp đặt các biện pháp kiểm soát giá cả và tiền công, hoặc dùng cơ quan lập kế hoạch trung ương nhằm cải thiện thị trường tự do.
Theo quan điểm của Hayek, nhà hoạch định kinh tế thậm chí không thể tiếp cận được những thông tin cần thiết để có thể thực hiện nhiệm vụ, vì thông tin là phân tán, cục bộ, phân mảnh, thay đổi nhanh chóng, mang tính cụ thể, cá nhân và khó truyền tải. Tuy nhiên, các thị trường xử lý tất cả những thông tin này, từ thời điểm này sang thời điểm khác, ở các cấp địa phương theo lối phân tán. Nhà hoạch định không cần phải quyết định các nguồn lực phải được sử dụng như thế nào: giá cả cung cấp những tín hiệu đơn giản, tự động đưa chúng đến những nơi chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Do đó, trật tự thị trường hiệu quả hơn hẳn và có thể phát triển lớn hơn hẳn, so với các hệ thống kế hoạch hóa.
Milton Friedman (1912−2006)
Vai trò quan trọng của đồng tiền ổn định; giá phải trả của điều tiết
Friedman là người phát ngôn có khả năng đặc biệt và rất thuyết phục về các ý tưởng của chủ nghĩa tự do. Thông qua tác phẩm Chủ nghĩa tư bản và Tự do (1962) cũng như một loạt phim truyền hình và tác phẩm Tự do lựa chọn (1980) - cả hai tác phẩm này đều được chấp bút cùng với bà Rose, vợ ông – hàng triệu người đã tìm hiểu về tiềm năng của thị trường tự do, thương mại cởi mở, tự do và chủ nghĩa tư bản.
Năm 1946, Friedman tham gia trong phong trào phản đối gay gắt việc kiểm soát tiền thuê nhà. Ông nhận xét rằng, những chính sách như thế làm cho chủ nhà không còn sẵn sàng bảo dưỡng và cho thuê tài sản của họ như trước nữa, nó làm giảm cả chất lượng và nguồn cung cấp chỗ ở để cho người ta thuê. Ông cũng nghiên cứu quy định và việc cấp giấy phép hành nghề (ví dụ như bác sĩ, luật sư và kế toán viên), và rút ra kết luận là nó không mang lại lợi ích gì cho dân chúng mà là chỉ mang lại lợi ích cho những người đang hành nghề mà thôi. Ông phát hiện ra rằng, bằng cách hạn chế cạnh tranh, cấp giấy phép hành nghề buộc khách hàng phải trả nhiều tiền hơn, mà dịch vụ lại có chất lượng kém hơn.
Friedman nổi tiếng nhất với công trình nghiên cứu về chính sách tiền tệ và ảnh hưởng của nó đối với lạm phát – một vấn đề lớn hồi cuối thế kỷ XX. Ông chỉ trích quan điểm chủ đạo nói rằng các chính phủ có thể kiểm soát lạm phát bằng cách điều chỉnh thuế khóa và chi tiêu; ông khẳng định rằng, đáng lẽ ra họ phải kiểm soát lượng tiền được đưa và lưu thông. Nhưng chính sách tiền tệ là công cụ rất thô lậu, cho nên các chính phủ chỉ cần đơn giản là thiết lập một khuôn khổ vững mạnh và ngừng can thiệp một cách liên tục vào hoạt động kinh tế.
James M. Buchanan (1919−2013) và Gordon Tullock (1922−2014)
Phê phán quá trình ban hành quyết định bằng những biện pháp chính trị
Buchanan và Tullock phát triển Trường phái kinh tế học lựa chọn công, họ thách thức ý tưởng cho rằng thất bại của thị trường biện minh cho sự can thiệp của chính phủ. Họ giải thích rằng, chính phủ còn thường xuyên thất bại hơn nữa, và làm cho mọi thứ thậm chí còn tồi tệ thêm, vì quá trình hoạch định chính sách cũng đầy rẫy hiện tượng tư lợi và bóc lột.
Sự thối nát bắt đầu ngay trong các cuộc bầu cử. Buchanan và Tullock chỉ ra rằng, bầu cử không phải cuộc sát hạch vì “quyền lợi chung” mà là cuộc tranh giành của các nhóm lợi ích cạnh tranh với nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, người dân có thể có bất kỳ sản phẩm nào, nếu họ chọn. Trong các cuộc bầu cử, nhóm đa số quyết định lựa chọn mà mọi người phải theo - và họ cũng có thể sử dụng quyền lực của nhà nước để giúp họ bóc lột nhóm thiểu số, đấy là hiện tượng mà các nhà sản xuất trong chủ nghĩa tư bản không thể làm được.
Các cuộc bầu cử cũng bị các nhóm lợi ích chi phối, đấy là những nhóm người có những quan tâm cụ thể và mạnh mẽ đối với kết quả, hơn là công chúng nói chung, công chúng thường có lợi ích phân tán và chừng mực hơn. Và ngay cả chính trị gia có tinh thần lo lắng đến lợi ích chung cũng cần phải nhượng bộ những nhóm lợi ích này thì mới được bầu. Chính sách hướng vào những thứ vụ lợi chứ không hướng vào những thứ hợp lý.
Hơn nữa, để những đề xuất của mình được cơ quan lập pháp thông qua, các chính trị gia thường phải điều chỉnh thêm thì mới được các đồng minh và các nhà lập pháp khác ủng hộ. Họ có thể phải thỏa thuận: “Anh bỏ phiếu cho đề xuất của tôi, còn tôi sẽ bỏ phiếu cho đề xuất của anh” - nghĩa là cuối cùng mọi người đều có nhiều luật định được ban hành hơn là họ thực sự muốn. Cuối cùng, các quan chức thực thi luật định do quy trình phi lý này tạo ra cũng có những lợi ích riêng cần theo đuổi: ví dụ, họ có thể tìm cách mở rộng đế chế quan liêu cá nhân của mình bằng cách làm cho các luật lệ trở thành phức tạp hơn, đòi hỏi nhiều nhân sự hơn để quản lý những luật lệ này.
Buchanan và Tullock rút ra kết luận: Chủ nghĩa tư bản có thể không hoàn hảo, nhưng chúng ta cũng đừng nên mơ tưởng về giải pháp thay thế.
Gary Becker (1930−2014)
Vốn con người; giải pháp kinh tế cho những vấn đề xã hội
Là học trò của Milton Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ, Gary Becker, đã tạo lập được nền tảng mới bằng cách áp dụng các khái niệm của các tư tưởng gia vĩ đại trong lĩnh vực kinh tế học về chủ nghĩa tư bản vào nhiều loại vấn đề xã hội khác nhau, trong đó có động cơ phạm tội, phân biệt đối xử với những nhóm người thiểu số và dân nhập cư. Tuy nhiên, ông nổi tiếng nhất với công trình nghiên cứu về vốn con người - mặc dù chính ông không đặt ra cụm từ này.
Vốn con người là những phẩm chất, kiến thức và kỹ năng giúp cho người ta làm việc năng suất hơn. Đấy là các khoản đầu tư vào giáo dục và đào tạo, nhưng cũng bao gồm những giá trị hữu ích khác như tuân thủ giờ giấc và siêng năng, thậm chí cả sức khỏe tốt nữa. Becker phân biệt hai loại vốn con người: chuyên biệt và phổ quát. Vốn con người chuyên biệt là kiến thức liên quan đến công việc cụ thể, chẳng hạn như cách sử dụng phần mềm độc quyền của doanh nghiệp. Các công ty trả tiền cho nhân viên để có được kiến thức này, vì họ biết rằng nếu nhân viên bị sa thải, thì thông tin này sẽ chẳng mang lại cho đối thủ cạnh tranh bất kỳ lợi ích nào. Vốn nhân lực phổ quát là kiến thức có thể được sử dụng ở bất cứ đâu, chẳng hạn như kỹ năng đánh máy. Các công ty không sẵn sàng trả tiền cho những kỹ năng mà người ta có thể mang theo như thế, vì vậy người ta thường phải bỏ tiền ta để học những kỹ năng này.
Cách tiếp cận của Becker cung cấp cho chúng ta những quan điểm thấu triệt thú vị khác. Ví dụ, ông cho rằng một trong những lý do vì sao hiện nay người ta dành nhiều thời gian hơn cho giáo dục - so với các thế hệ trước đây - vì họ sống lâu hơn - kéo dài và gia tăng những lợi ích tiềm tàng mà họ có thể thu được từ những kỹ năng có thể mang theo bên mình. Tiến bộ công nghệ cũng làm cho việc có được kiến thức tiên tiến và kỹ năng công nghệ cao có lợi hơn, vì những kiến thức và kỹ năng này có thể giúp người ta làm việc hiệu quả hơn và được đánh giá cao hơn. Ý tưởng về vốn con người thậm chí còn giúp giải thích vì sao ngày càng có nhiều phụ nữ đi học hơn hẳn trước kia. Đấy không chỉ là vấn đề thay đổi về mặt xã hội học, mà còn vì tự động hóa việc nhà đã góp phần giải phóng phụ nữ khỏi những công việc lặt vặt trong gia đình để họ có thể theo đuổi sự nghiệp của chính mình.
Đây là một trong những kết luận cuối cùng, nhưng cực kỳ quan trọng. Becker nói rằng, vì công nghệ thay đổi ngày càng nhanh hơn, nhu cầu học tập suốt đời cũng gia tăng, nó tạo điều kiện cho người ta phát triển các kỹ năng mới và giữ cho vốn con người của họ luôn luôn được cập nhật.
Israel Kirzner (1930−)
Vai trò của hoạt động khởi lập nghiệp; tầm quan trọng của các ảnh hưởng tương động
Xuất thân từ London, Kirzner tới New York theo học Ludwig von Mises. Tương tự như Mises, ông khẳng định rằng các mô hình “cân bằng tĩnh tại” che lấp bản chất tương động (dynamic) của kinh tế học. Hoạt động kinh tế không bao giờ ổn định ở trạng thái cân bằng hoàn hảo: ngược lại, người ta thường xuyên điều chỉnh kế hoạch và hành động của mình nhằm đáp ứng với những hành động đang thay đổi của những người khác. Quá trình tương động này giữ cho hành động của họ liên tục - mặc dù không hoàn hảo – được phối hợp với nhau.
Kirzner giải thích rằng hoạt động khởi lập nghiệp (entrepreneurship) có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, duy trì và cải thiện khả năng phối hợp của thị trường. Khởi lập nghiệp là quá trình trong đó các cá nhân (không nhất thiết là các nhà khởi lập nghiệp chuyên nghiệp, mà cả những người bình thường) phát hiện ra những khoảng trống và thiếu phối hợp trên thị trường, rồi hành động để lấp đầy và điều chính cho phù hợp. Ví dụ, một người nào đó có thể phát hiện ra rằng một vật liệu mới cho phép có thể sản xuất một số sản phẩm nhẹ hơn hoặc bền hơn những sản phẩm cũ; một người khác có thể phát hiện ra rằng văn phòng mới sẽ cần một quán cà phê ở gần đó; người khác có thể tin rằng tiệm bánh nổi tiếng ở địa phương có thể trở thành chuỗi cửa hàng thành công trên toàn quốc. Họ có thể hành động theo dự cảm của mình chỉ vì họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cho chính mình: nhưng khi làm như thế, họ giúp phối hợp các hoạt động kinh tế bằng cách làm cho quá trình sản xuất phù hợp hơn với nhu cầu và mong muốn khác nhau của dân chúng.
Những sự kiện như thế này chứng tỏ rằng điều chỉnh và phối hợp kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức mang tính khu vực về các điều kiện của thị trường mà những người khác nhau có thể nắm được. Nhưng ý tưởng “thông tin hoàn hảo” của kinh tế học dòng chính đã bỏ quên nó. Nó cũng nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta phải có các chính sách, thiết chế phù hợp và thị trường cởi mở để tinh thần khởi lập nghiệp có thể đơm hoa kết trái.
Deirdre McCloskey (1942−)
Các giá trị của chủ nghĩa tự do và tăng trưởng kinh tế
McCloskey sinh ra là nam nhưng đã chuyển giới vào lúc 53 tuổi. Trước đây bà từng nổi tiếng với tên Donald McCloskey nhờ công trình nghiên cứu về lý thuyết giá cả và những chủ đề khác; nhưng sau này, nhờ kết quả của công trình nghiên cứu về lịch sử kinh tế của nước Anh người ta mới nhận thấy ảnh hưởng to lớn của bà. McCloskey rút ra kết luận nói rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ suốt trong hai thế kỷ vừa qua không thể được giải thích chủ yếu là do vốn hay các thể chế mà là do quá trình truyền bá các ý tưởng tự do - mà cụ thể là “các giá trị tư sản” (bourgeois values).
McCloskey nhấn mạnh quy mô to lớn của tăng trưởng kinh tế trong thời gian gần đây. Năm 1800, một người trung bình chỉ kiếm được số tiền tương đương với vài đôla một ngày. Hiện nay, thu nhập trung bình cao gấp hàng chục lần con số đó. Nếu cho rằng, từ năm 1800 đến nay dân số thế giới đã tăng gấp bảy lần thì đấy là sự gia tăng cực kỳ to lớn về của cải. Nó không chỉ đơn giản là giàu có về vật chất: cùng với của cải, tuổi thọ và học vấn ngày càng gia tăng còn là sự giàu có về trí tuệ và văn hóa.
Giai đoạn giàu có vĩ đại này – bước nhảy vọt lớn nhất về của cải kể từ ngày xuất hiện nông nghiệp, nhưng lớn hơn hẳn – bắt đầu vào khoảng năm 1860. Cú tăng trưởng ngoại mục này không thể giải thích trọn vẹn bởi mức tăng trưởng kinh tế ổn định của nước Anh từ sau Cái chết đen, thế kỷ XIV, thậm chí bởi Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu vào cuối thế kỷ XVIII, và cả các thể chế và chế độ pháp quyền của Anh. Bà khẳng định rằng, chỉ có những ý tưởng mới mới có thể thay đổi mọi thứ nhanh đến như thế. Giai đoạn giàu có vĩ đại bắt nguồn từ quá trình truyền bá của “chủ nghĩa tự do tư sản”, lần đầu tiên nó cho phép những người dân bình thường được hưởng quyền tự do, nhân phẩm và thịnh vượng. Trong suốt nhiều thế kỷ, buôn bán bị coi là vụ lợi và làm mất phẩm giá: nhưng những người cầm bút, ví dụ như John Locke và Adam Smith đã bảo vệ đức hạnh của tự do, thương mại, tích lũy của cải và vốn, cũng như phẩm giá và lòng tự trọng mà thương mại mang lại cho những người công dân bình thường. Bất thình lình, không có gì có thể ngăn cản được thiên tài sáng tạo của một dân tộc tự do.
Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.
