[Khảo lược Adam Smith] - Lời nói đầu

[Khảo lược Adam Smith] - Lời nói đầu

Lời bạt:

Adam Smith của ngày hôm nay

Craig Smith1

Đối với nhiều người, đặc biệt là tại Scotland quê hương ông, Adam Smith là một người nổi tiếng. Có những tờ giấy bạc in chân dung ông, có những trường đại học và nhà hát mang tên ông và một bức tượng đang được xây dựng ở Edinburgh nhằm vinh danh ông. Thậm chí là tôi đang viết những dòng này trong văn phòng của tôi ở ngay toà nhà mang tên Adam Smith tại đại học đường Glasgow nữa. Tuy nhiên, đáng buồn là Smith nổi tiếng và được ca tụng nhưng chẳng có mấy người biết và ca tụng những điều ông thực sự nghĩ trong đầu. Smith là một trong những nhà tư tưởng sâu sắc nhất từng xuất hiện ở Scotland, ở Anh và trên toàn cõi châu Âu. Hi vọng rằng cuốn lược khảo này sẽ sửa chữa được phần nào sự u mê của người đời.

Lần tiếp xúc đầu tiên của tôi với Adam Smith là thông qua một ông thầy thông thái ở trường cao đẳng kinh tế, ông đã dùng những thí dụ rút ra từ tác phẩm Của cải của các quốc gia để minh họa cho bài giảng. Những ngày thứ tư trong tuần của học kì thứ tư là cả một niềm vui về mặt trí tuệ với những người thợ làm đinh, những chiếc áo khoác len của người lao động và người bán thịt, người nấu bia, người thợ làm bánh mì. Tôi đã có may mắn được tiếp xúc từ rất sớm với những công trình khoa học của con người vĩ đại đó và còn may mắn hơn nữa khi được tham gia lớp học về thời kì Khai sáng ở Scotland như một phần của chương trình dành cho sinh viên sắp ra trường.

Đáng tiếc là việc tiếp xúc sớm như thế với tư tưởng của Smith mà tôi được hưởng rất hiếm khi xảy ra. Ngày nay không có mấy sinh viên và những người không chuyên đọc sách của Smith. Trong các trường phổ thông và đại học, Smith cũng không được giảng dạy một cách thường xuyên như đáng lẽ phải làm. Thật đáng xấu hổ. Đặc biệt đáng tiếc là nhiều sinh viên sắp tốt nghiệp cũng chỉ được giới thiệu một cách qua loa về người sáng lập ra môn học của họ. Nhiều khóa học về kinh tế học cũng chỉ nhắc đến Smith (thường là thí dụ về việc làm đinh) một cách sơ sài trong những bài giảng giới thiệu về phân công lao động rồi chuyển ngay sang thảo luận những nguyên lí mà ông đưa ra bằng ngôn ngữ trừu tượng khô khan.

Thật là đáng tiếc vì Smith viết bằng văn phong rõ ràng, hiện nay cũng có thể hiểu được như người ra có thể hiểu cách đây 250 năm. Các công trình của ông chứa đầy những quan sát phức tạp và phong phú, có thể truyền cảm hứng và khai sáng cho độc giả của nó. Các công trình của Smith là một cố gắng nhằm tìm hiểu xã hội phức tạp hoạt động như thế nào. Trung tâm của môn khoa học xã hội này là nhận thức vẻ sự tương tác và tương thuộc của những cá nhân với nhau. Cả hai đều là hiện thực của thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay.

Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, công trình nghiên cứu của Smith về thương mại trong nước và quốc tế là một nhát cắt đi thẳng vào trung tâm các lực lượng định hình đời sống của chúng ta. Ông có thể đã trước tác trong một thời đại khác với thời đại của chúng ta, nhưng chẩn đoán của ông về những sai lầm của chủ nghĩa lợi thương và sự nghỉ ngờ của ông đối với những hành động can thiệp chính trị mang tính độc đoán là đặc biệt có ý nghĩa đổi với thể giới hôm nay, khi mà việc buôn bán dễ bị những người chống lại những hiệu quả có thể có của thương mại bêu riếu, chế nhạo.

Smith cũng có khá nhiều đối thủ. Nhưng cái ông Smith mà họ cho là nhà tiên tri của tính ích kỉ không phải là ông Smith mà bất cứ ai đã đọc và hiểu được công trình của ông đều phải công nhận. Lí thuyết về cảm nhận đạo đức là một tác phẩm cực kì nhân văn viết về tâm lí về luân lý đạo đức, tác phẩm này đã coi sự đồng cảm là trung tâm của kinh nghiệm sống của con người. Smith đã dành trọn vẹn tuổi trưởng thành của mình để nghiên cứu và lí giải hoạt động trong đời sống hàng ngày của con người. Ông không bị những tư tưởng về đức hạnh không thể nào đạt được ám ảnh. Thay vào đó, ông đã dành thời gian để khảo sát xem những người bình thường tham gia vào các mối tương tác như thế nào và họ đưa ra những quyết định mang tính đạo đức như thể nào.

Ở đây nữa, không phải như một số nhà phê bình hời hợt nói, không hề có mâu thuẫn nào giữa công trình nghiên cứu về thương mại trong tác phẩm Của cải của các quốc gia và phân tích về sự đồng cảm trong Lí thuyết về cảm nhận đạo đức. Đấy là những khía cạnh của đời sống của con người và Smith đã áp dụng thái độ nghiêm khắc như nhau trong việc nghiên cứu ảnh hưởng của cả hai hiện tượng đó đối với đời sống của con người.

Các công trình của Smith xuất phát từ ước muốn tìm hiểu hiện thực dựa trên kinh nghiệm của đời sống xã hội của loài người. Thí dụ, luận cứ chống lại sự can thiệp thái quá của chính trị là dựa vào việc phân tích thực tiễn của hành vi trao đổi buôn bán. Một vấn đề cũng hay bị bỏ qua là các thí dụ về lợi ích của việc trao đổi giữa cá nhân không phải là những người giàu có - những người ông coi thường - mà là những người rất nghèo. Smith tin rằng thương mại mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người nằm dưới đáy của xã hội.

Các công trình của Adam Smith cung cấp cho chúng ta một bản phân tích rõ ràng các nguyên tắc và định chế nền tảng cần thiết cho việc củng cố xã hội tự do. Nguyên tắc pháp trị và công lí cung cấp bộ khung cho hệ thống tự do “đơn giản và hiển nhiên”, mang lại lợi ích cho toàn thể loài người. Trong khi đó, sự tiến hóa của những hành vi đạo đức được mọi người chia sẻ củng cố và duy trì đời sống cộng đồng của con người.

Tư tưởng về bàn tay vô hình, hay nói một cách tổng quát hơn, tư tưởng về quá trình tiến hóa của xã hội thông qua những kết quả không có chủ ý từ trước chính là di sản chủ yếu mà Smith để lại cho thế giới hiện đại. Như ông Ferguson, một người bạn của Smith, từng nói: công nhận rằng nhiều thành tựu quan trọng nhất của con người là kết quả của hành động chứ không phải là kế hoạch của con người là một bài học sâu sắc đối với tất cả chúng ta. Chính nhận thức đó đã dẫn Smith đến thái độ hoài nghi sâu sắc đối với “những người theo tư tưởng hệ thống”, tức là những người có ý định tổ chức nhân loại để đưa họ đến những mục tiêu cao cả.

Smith là một người thực tế và thận trọng; tư tưởng của ông không thích hợp với thói cao ngạo của những nhà tư tưởng xuông. Điều này không có nghĩa là không được coi Smith là một nhà tư tưởng cấp tiến. Vì đối với thời đại đó, đấy là những tư tưởng cách mạng. Trong thời đại của chúng ta, tư tưởng của ông hướng người ta đến quan điểm chính trị có thể được mô tả như là nhân đạo và tự do. Đấy vẫn là những tư tưởng cấp tiến vì chúng thách thức rất nhiều tín điều đã ăn sâu bén rễ vào đầu óc các chính trị gia của chúng ta. Nếu có thêm nhiều các chính trị gia của chúng ta đọc và hiểu các tác phẩm của Smith thì những điều tưởng như là cấp tiến sẽ chỉ được coi là lương tri theo lẽ thường mà thôi.

Không nghi ngờ gì rằng trong giới hàn lâm, việc nghiên cứu Adam Smith vẫn đang tiến triển tốt. Từ năm 2000 đến năm 2004, trên toàn thế giới đã có 14 người chọn Adam Smith làm đề tài luận án tiến sĩ. Họ tham gia vào cộng đồng các học giả nghiên cứu Adam Smith, một cộng đồng hoạt động trong nhiều môn học mang tính hàn lâm. Việc Hội Adam Smith quốc tế xuất bản hàng năm tạp chí Adam Smith Review càng chứng tỏ sự quan tâm mạnh mẽ đối với các tác phẩm của Smith trong giới hàn lâm.

Ngoài những học giả chuyên nghiên cứu về Adam Smith, còn có một số rất lớn các nhà khoa học được Smith khích lệ thông qua các tác phẩm của chính mình, những người được Adam Smith khích lệ có thể mở mang thêm những điều ông quan sát và thu hoạch được. Sự quan tâm đối với lí thuyết “rất hiện đại” về khoa học của Smith đang ngày càng gia tăng và môn tâm lí xã hội về luân lý đạo đức của ông đang khuyến khích những tìm tòi trong chuyên ngành tâm lí học tiến hoá. Các lí thuyết về ngôn ngữ học và mĩ học của ông vẫn còn chưa được tìm hiểu một cách kĩ lưỡng và hứa hẹn cung cấp cho các học giả một khu vực hoạt động rất phong phú. Như cuốn khảo lược của Tiến sĩ Butler đã chỉ rõ, Smith để lại cho chúng ta một di sản tinh thần to lớn. Nhưng ông còn để lại một di sản chưa hoàn tất. Khảo sát ý nghĩa các tư tưởng của Smith cung cấp cho ta dự án nghiên cứu phong phú và hấp dẫn có thể kéo dài suốt cả cuộc đời.

Adam Smith để lại cho chúng ta di sản trước tác phong phú. Ông là người đã góp phần định hình thế giới chúng ta đang sống hôm nay. Ông cũng là người cung cấp cho chúng ta công cụ trí tuệ giúp tìm hiểu thế giới đó. Cần phải có nhiều người đọc và hiểu công trình của ông hơn. Nếu chuyện đó xảy ra, sức truyền cảm của các tư tưởng của ông sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thế giới của chúng ta hơn, cũng như trí tuệ của ông đã giúp hiểu rõ thời đại của chính ông.

Dịch xong ngày 24 tháng 7 năm 2009.

Nguồn:

https://iea.org.uk/publications/research/adam-smith-a-primer

 

Lời giới thiệu

Không lâu sau khi được được bổ nhiệm là Giáo sư môn Kinh tế thương mại và Luật thương mại (sau này gọi tắt là Giáo sư Khoa Kinh tế học) ở trường Đại học Tổng hợp Edinburgh, tôi được mời hướng dẫn hội nghị chuyên đề ở trường Đại học Havard vào năm 1958. Tác phẩm The Affluent Society (Xã hội thịnh vượng) của J. K. Galbraith, trong đó có những lời lẽ rất ân cần đối với Adam Smith, cũng vừa được xuất bản. Trong những ngày đó, Kenneth Galbraith đang là tâm điểm chú ý của rất nhiều người và một người bạn ở Havard tin rằng anh ta đã làm được một “việc phi thường”, tức là thu xếp cho tôi gặp Kenneth Galbraith vào bữa ăn trưa. Muốn làm hài lòng khách, ông nói: “Alan, trưởng khoa kinh tế học nổi tiếng nhất thế giới phải là người thế nào?”. Tôi cảm thấy lúng túng, cho nên tôi bèn kể lại rằng chức trưởng khoa kinh tế ở Trường Đại học Tổng hợp Edinburgh, do Công ti Thương mại Edinburgh lập ra và tài trợ vào năm 1870 với kì vọng rằng (người nhận chức này) là một nhà kinh tế học có thể tiên đoán được chu kì kinh tế2. “Nhưng”, Kenneth Galbraith nói, “anh phải giữ chức mà Adam Smith từng giữ”. “Xin lỗi", tôi đáp, “nhẩm trường, nhầm môn, nhằm thế kỷ. (Như các bạn đều biết, Adam Smith là Giáo sư môn Logic học và sau đó là Luân lý học ở Glasgow), Bữa ăn khó có thể coi là thành công....

Tôi cảm thấy áy náy vì đã phơi bày sự kém hiểu biết của Kenneth Galbraith vì xét cho cùng thì Adam Smith cũng rất gắn bó với Edinburgh, mặc dù ông chưa bao giờ giảng dạy ở đây. Ông được chôn cất ở đây và chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng đầu tiên nhằm vinh danh ông được xây dựng ở Scotland. Đây là nhờ những cố gắng cực kì giá trị của Viện Adam Smith và chủ yếu là của Eamonn Buttler, người giới thiệu tư tưởng của Adam Smith qua cuốn sách tuyệt vời này. Hơn nữa, giống như nhiều người tự nhận là hiểu biết và ngưỡng mộ, và như một người Scotland quan tâm đến Smith, tôi tập trung chú ý vào tác phẩm The Wealth of Nations (Của cải của các quốc gia). Tôi đã không nhận thức được đầy đủ rằng đối với Smith thì tác phẩm The Theory of Moral Sentiment (Lí thuyết về cảm nhận đạo đức) là nền tảng của không chỉ quan niệm của ông về đạo đức mà còn là cách trình bày của ông về quan niệm của các cá nhân về cách họ sẽ, cũng như phải, hành xử trong giao dịch hằng ngày.

Cuốn lược khảo của Tiến sĩ Butler cùng với lời giới thiệu đầy thẩm quyền của Giáo sư Kennedy đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng trên thực tế không hề có “vấn đề Adam Smith, tức là vấn đề hòa giải các quan điểm về luân lí học với các quan điểm về kinh tế học của ông. Nó đập tan cái huyền thoại vẫn thịnh hành cho đến nay rằng ông là người biện hộ cho “chủ nghĩa tư bản” (từ này chưa từng xuất hiện trong các tác phẩm của Smith) và những thủ đoạn đầu cơ trục lợi. Đấy một phần là do đặc điểm đáng chú ý của tác phẩm The Theory of Moral Sentiment, tức là tác phẩm đã giải thích một cách kĩ lưỡng quan điểm của Smith về cơ sở đạo đức căn bản của con người. Kết quả là Tiến sĩ Butler có đủ luận cứ để tuyên bố rằng Adam Smith trước hết phải được coi là nhà tâm lí xã hội học.

Tôi đã đưa ra đầy đủ bằng chứng chứng tỏ rằng Tiến sĩ Butler đã viết được một tập khảo luận, trong đó không chỉ trình bày một cách khéo léo những điều đã biết về cuộc đời và thời đại của Adam Smith mà còn đưa ra được những điểm mới độc đáo mà các chuyên gia cũng phải đánh giá cao. Tôi xin kết thúc nhiệm vụ thú vị này của mình ở đây vì không muốn cản trở độc giả thưởng thức tác phẩm này, cũng như tôi đã rất vui khi được thưởng thức nó vậy.

Alan Peacock

Giáo sư danh dự Khoa Tài chính công

Trường Thương mại Edinburgh,

Đại học Heriot-Watt.

 

Tóm tắt

  • Của cải của các quốc gia không phải là số vàng bạc chứa trong kho, như những người theo phái lợi thương (mercantilists) vẫn nghĩ, mà là tổng giá trị sản phẩm và thương mại của quốc gia đó - ngày nay chúng ta gọi là tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
  • Tự do trao đổi làm cho cả hai bên đều có lợi. Người ta sẽ không trao đổi khi nghĩ rằng mình bị thiệt. Vì vậy, nhập khẩu mang lại lợi ích cho chúng ta cũng như hàng xuất khẩu của chúng ta mang lại lợi ích cho người khác. Chúng ta không cần phải làm cho người khác nghèo đi thì mình mới giàu lên. Thực ra, chúng ta sẽ được lợi nếu người tiêu dùng của chúng ta là những người giàu có.
  • Các quy định về quản lí thương mại đã được xây dựng một cách thiếu căn cứ và phản tác dụng. Thuế khoá, thuế nhập khẩu, tài trợ cho xuất khẩu và ưu tiên cho các ngành sản xuất trong nước là những mối đe doạ đối với sự thịnh vượng.
  • Năng lực sản xuất của quốc gia phụ thuộc vào việc phân công lao động và tích lũy tư bản. Năng suất gia tăng nhanh chóng nếu chia sản xuất thành nhiều công đoạn nhỏ, mỗi công đoạn lại được những người có tay nghề thực hiện. Người sản xuất thu được giá trị thặng dư để có thể đầu tư tiếp.
  • Thu nhập của đất nước trong tương lai phụ thuộc vào tốc độ tích luỹ tư bản. Những ngành có năng suất cao càng được đầu tư nhiều thì càng sản xuất được nhiều của cải hơn trong tương lai.
  • Khi được tự do trao đổi và cạnh tranh, thị trường tự động tập trung chú ý vào những nhu cầu thiết yếu nhất. Khi một món hàng hóa nào đó trở nên khan hiểm thì người dân sẵn sàng trả giá cao hơn. Cung cấp các hàng hoa này sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn, vì vậy người sản xuất đầu tư nhiều hơn cho việc sản xuất các loại hàng hóa đó.
  • Thịnh vượng sẽ gia tăng nhanh nhất khi có thị trường cởi mở và cạnh tranh, trao đổi tự do và không bị ép buộc. Quốc phòng, luật pháp và chế độ pháp trị là để duy trì sự cởi mở đó. Tự do và tư lợi không dẫn đến hỗn loạn mà - như được một “bàn tay vô hình” dẫn dắt - tạo ra trật tự và hài hòa.
  • Các nhóm đặc quyền sử dụng quyền lực của nhà nước nhằm làm méo mó hệ thống thị trường để thu lợi riêng. Người sử dụng lao động và người có tay nghề có thể cổ vũ cho những điều luật ngăn chặn cạnh tranh, như đặt ra rào cản không cho người khác tham gia hoạt động trong những ngành nghề cụ thể nào đó.
  • Thuế khóa phải tỉ lệ thuận với thu nhập, phải xác định và dễ đóng. Mức thuế phải thấp để người ta có thể nộp, thuế phải không được gây cản trở cho doanh nghiệp, không được quá nặng vì sẽ khuyến khích trốn thuế và không được đòi hỏi nhân viên thuế vụ phải đến kiểm tra doanh nghiệp một cách thường xuyên.
  • Con người vốn có sự “thông cảm” (hay “đồng cảm”) tự nhiên với người khác. Điều đó giúp họ tiết chế hành vi của mình và tạo ra sự hài hòa. Đấy chính là cơ sở của việc đánh gia hành vi và là nguồn gốc đức hạnh của con người. Bản chất của con người là động cơ dẫn đến sự hình thành xã hội hài hoa chứ không phải là lí do sinh ra những người quá khích hay viển vông.

 

Lời nói đầu

Gavin Kennedy3

Tiến sỹ Eamonn Butler đã viết được một tác phẩm dẫn nhập đáng khâm phục và đầy sức thuyết phục về cuộc đời và tư tưởng của Adam Smith. Đây là tác phẩm dẫn nhập ngắn và hay nhất mà tôi từng biết, nó sẽ giúp mọi người hiểu được thực chất tư tưởng của Adam Smith là gì.

Eamonn Butler tránh xa những cuộc bút chiến về kinh tế chính trị học của Adam Smith mà người ta đã viết rất nhiều suốt bao năm qua. Cuốn sách này, viết về con người và tác phẩm của Adam Smith, là một sự đánh giá chính xác công trình tổng hợp có một không hai của ông về sự tiến hóa của xã hội Anh cho đến giữa thế kỉ XVIII.

Tác phẩm The Theory of Moral Sentiment (Lí thuyết về cảm nhận đạo đức), ít được biết đến hơn được xuất bản mười bảy năm trước khi cuốn An Inquiry into the Nature and Causes of The Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia) xuất hiện. Người ta cho rằng trong giai đoạn đó Smith đã chuyển từ quan niệm cho rằng lòng nhân từ là động cơ hành động của con người sang quan niệm cho rằng tính tư lợi phi đạo đức mới là động cơ đích thực. Nhưng từ những ghi chép của những sinh viên vô danh trong các năm 1762-1763, chúng ta biết rằng phần lớn các bài giảng của Smith đã tái xuất hiện gần như nguyên văn trong tác phẩm Của cải của các quốc gia, xuất bản vào năm 1776. Ông xuất bản các bài giảng (1751-1764) dưới tên gọi là Lí thuyết về cảm nhận đạo đức vào năm 1759. Như vậy là Adam Smith không có những quan điểm trái ngược nhau về động cơ của con người.

Smith là nhà luân lí học. Trong thể kỉ XVIII kinh tế học chưa trở thành ngành học riêng biệt, mãi đến thế kỉ XIX nó mới trở thành một ngành học mới. Đúng là đã có rất nhiều tác giả, cả trước đây lẫn hiện nay, viết về kinh tế (Đại học Yale lưu trữ mấy ngàn tác phẩm viết từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII), và một số người đã có đóng góp đối với môn kinh tế học, nhưng không có ai khảo sát được một cách quy mô và theo cách như Smith đã làm.

Trước Smith, môn kinh tế chính trị học tập trung vào việc làm giàu cho hoàng để và quốc gia bằng những thỏi vàng và bạc để tài trợ cho những cuộc chiến tranh ở nước ngoài. Của cải của các quốc gia tập trung chú ý vào việc làm giàu cho người tiêu thụ thông qua “sản phẩm hằng năm của đất đai và sức lao động”. Đây không chỉ là một cuốn sách giáo khoa thông thường, đây là một tác phẩm chú tâm thảo luận về bản chất của của cải và những nguyên nhân làm cho của cải gia tăng.

Cuốn I và II trình bày những tính chất đặc biệt của xã hội loài người, như xu hướng trao đổi, sự phân công lao động, các nhân tố sản xuất, tính năng động của thị trường và sự phân phối lợi tức giữa những người tham gia vào thị trường. Cuốn III đặt nước Anh thế kỉ XVIII vào trong bối cảnh của quá trình phát triển xã hội, từ thời kì “săn bắn” nguyên thủỷ, qua giai đoạn “chăn nuôi” và “trồng trọt”, sang thời đại thương mại và chỉ ra sự sụp đổ của Rome trong thế kỉ thứ V đã làm gián đoạn sự phát triển “tự nhiên” này như thế nào tại Tây Âu.

Từ thế kỷ XV, châu Âu bắt đầu phục hồi dưới gánh nặng của chính sách mà Smith gọi là chính sách phục vụ cho điều mà Smith gọi là “thương mại con buôn” (mercantile commerce). Cuốn IV phê phán quyết liệt chính sách này vì sai lầm cơ bản của nó khi cho rằng tài sản của quốc gia là những thỏi vàng, bạc tích trữ được và cân bằng thương mại là quan trọng vì đất nước cần phải xuất nhiều hơn nhập. Tai hại hơn nữa là người ta tin rằng nền kinh tế trong nước sẽ mạnh hơn nếu có các doanh nghiệp độc quyền được bảo vệ, nếu có những hạn chế trong việc di chuyển và thuê mướn nhân công, và không bị thị trường tự do làm cho nhiễu loạn.

Các biện pháp uốn nắn của Smith tập trung vào việc giải phóng thị trường khỏi những sự can thiệp làm cho nó không thể hoạt động một cách tự nhiên. Ông ủng hộ việc mở rộng quá trình trao đối tự do những sản phẩm được sản xuất theo lối cạnh tranh để cho tốc độ phát triển tự nhiên của nền kinh tế có thể khởi động bằng cách tạo điều kiện cho người dân kết hợp “đất đai, lao động và vốn” với những người khác nhằm sản xuất ra hàng hóa bán trên thị trường. Sau khi trả địa tô cho chủ đất, tiền công cho người lao động và lợi nhuận cho người sản xuất và thương nhân, chủ sở hữu vốn sẽ tái đầu tư lợi nhuận ròng của mình vào những hoạt động sản xuất khác; và thông qua chu trình sản xuất và trao đổi tiếp theo sẽ tạo ra, từ thu nhập hằng năm của đất đai và lao động của xã hội, của cải cho xã hội. Số của cải này, thông qua những chu trình của “vòng lưu thông vĩ đại”, sẽ tiếp tục phát triển, tuy chậm chạp, nhưng liên tục.

Trong cuốn V, Smith bàn về vai trò của chính phủ và đưa ra những chức năng chủ yếu sau đây: quốc phòng, công lý, công tác xã hội và các định chế tạo thuận lợi cho việc buôn bán, giáo dục cho “dân chúng thuộc mọi lứa tuổi”, các biện pháp chống lại “những căn bệnh ghê tởm và đáng ghét”, giữ vững “phẩm giá của quyền lực tối cao”, và chi cho những công việc này bằng cách đánh thuế và thu phí của những người được thụ hưởng (thay vì để cho nhà nước mắc nợ).

Của cải của các quốc gia đã giáng một đòn chí tử vào "những nguyên tắc của môn kinh tế chính trị học" lợi thương thời ông, khi những nguyên tắc này tiền hóa cùng với sự phục hồi của châu Âu sau vụ sụp đổ của để chế La Mã và sự thoát thai của những quốc gia dân tộc kéo dài suốt một ngàn năm từ chế độ phong kiến và các lãnh chúa.

Đa số người dân Tây Âu rất nghèo, tình cảnh nghèo khó và bị bức hại là động lực chính để họ di cư sang Bắc Mỹ, Nam Phi và Úc châu, suốt những thập niên đầu thế kỉ XX. Smith nhìn thấy không chỉ cảnh nghèo mà cả nguyên nhân của nó nữa, đó là: không có cơ hội làm ra của cải. Đấy chính là lí do để ông hướng cách tiếp cận mang tính lịch sử của mình vào việc nghiên cứu xã hội loài người. Rải rác trong các cuốn sách của Smith là những thí dụ và trích dẫn từ các tác phẩm Hy Lạp và La Mã cổ đại mà ông rất thông thạo. Tương tự như các nhân vật lỗi lạc khác thời đại Khai Sáng thế kỉ XVIII, Smith nhìn về cội nguồn của xã hội chứ không hướng tới những cách giải thích theo kiểu không tưởng, như chủ nghĩa lãng mạn phát triển trong thế kỉ XIX, chứ không phải chủ nghĩa lãng mạn trong thế kỉ XVIII.

Nền văn minh châu Âu rơi vào tình trạng dã man của các lãnh chúa và chế độ phong kiến, nhưng sản lượng nông nghiệp đã hồi phục một cách từ từ và chậm chạp (những tính từ quen thuộc trong tác phẩm của ông), dân số gia tăng và thương mại tái xuất hiện trong những phiên chợ và thị trường nằm rải rác khắp nơi. Trong hàng trăm năm, trước năm 1760, các loại vật dụng của ngay cả những gia đình lao động bình thường cũng “phong phú” (phần lớn là do kiếm được qua tay một người khác) hơn so với các bộ lạc săn bắn ở Bắc Mỹ và cả những “ông hoàng” đầy quyền lực của họ. Từ những bản tường trình của các du khách, kết hợp với quan sát cá nhân tại những nhà máy làm đinh và đinh ghim và xưởng đúc ở gần Kirkcaldy, Smith nhận thấy rằng của cải không nằm trong những thỏi vàng, thỏi bạc mà được tạo ra trong quá trình sản xuất và phân phối những sản phẩm thô sơ của đất đai và lao động của xã hội và những sản phẩm này trở thành những vật dụng có thể nhìn thấy được trong gia đình của những người lao động bình thường. Đấy chính là hàn thử biểu về sự giàu sang tương đối của đất nước.

Trí tuệ của ông không phải ở chỗ phát minh ra sự phân công lao động – “vinh quang” này thuộc về Plato, còn ở thời “hiện đại” thì thuộc về Sir William Petty (1690) - mà ở chỗ nhận ra ý nghĩa của nó như là phương tiện lan toả của cải đến phần đông dân cư chứ không phải chỉ cho những người giàu có nhất, và làm cho tất cả mọi người đều trở thành giàu có sau một vài thế hệ.

Điều đó lại đưa ông đến những câu hỏi như: Nều phân công lao động là then chốt thì cái gì sẽ làm gia tăng sản lượng, phần đóng góp của mỗi người được quyết định như thể nào, và quan trọng là, đâu là chướng ngại vật trên đường dẫn tới sự giàu sang? Trong cú nhảy từ mô tả sang phân tích vấn đề, ông đã đặt nền móng cho một môn khoa học mới về kinh tế.

Tôi xin trình bày một cách ngắn gọn mô hình nền kinh tế thương mại của ông, tức là nền kinh tế thương mại hoạt động trong một chế độ tự do hoàn hảo, và cũng coi như đây là phẩn bổ sung vào tác phẩm tuyệt vời này của Eamonn Butler, như sau.

Xã hội thương mại thúc đẩy quá trình trao đổi các sản phẩm có thể bán được trên thị trường do quá trình phần công lao động tạo ra. Hàng đổi hàng, là quá trình trao đổi trực tiếp nhưng kém hiệu quả, đã diễn ra trong một thời gian dài trước khi xuất hiện việc trao đổi gián tiếp hữu hiệu hơn, thông qua trung gian là tiền. Việc đúc tiền trong các nền văn minh cổ đại diễn ra trong hàng ngàn năm trước đây chứng tỏ rằng thương mại đã từng tồn tại do có sự phân công lao động (nếu không thì người ta đúc tiền làm gì?).

Khởi thuỷ, trao đổi được thực hiện giữa sản phẩm của làng quê (lương thực, thực phẩm và nguyên liệu thô) với sản phẩm của các thị trấn (công cụ thô sơ và đồ trang sức rẻ tiền). Giá cả hàng hóa mang ra trao đổi được quyết định bởi cung và cầu trên thực tế, và có thể khác với cái mà Smith gọi là “giá tự nhiên”, trong đó bao gồm tiền trả cho người nắm các nhân tổ sản xuất (ruộng đất, lao động và vốn), tức là các tác nhân hợp tác trong quá trình sản xuất, kể cả mức lãi suất ở địa phương. Giá cả thị trường luôn luôn dao động xung quanh nhưng không bao giờ nằm đúng điểm cân bằng hoàn hảo và có thể không bù đắp được chi phí. Tuy nhiên, giá cả thị trường thay đổi lại là tín hiệu cho những người tham gia trả thêm hay trả bớt, cung cấp thêm hay rút bớt số hàng đang có; sau một thời gian việc cung cấp nhất định sẽ được điều chỉnh phù hợp với những tín hiệu đó. Đẩy chính là sự năng động của nền kinh tế cạnh tranh.

Lao động là sản xuất hoặc phi sản xuất, khác biệt là ở chỗ lao động sản xuất cùng với một số vốn nhất định tạo ra sản phẩm được bán trên thị trường và bù đắp được chi phí, trong đó có cả lợi nhuận của doanh nghiệp. Sản phẩm của lao động phi sản xuất (thí dụ như người đầy tớ phục vụ bữa ăn của một gia đình giàu có) không bán trên thị trường nhằm thu hồi chí phí mà được tiêu thụ trực tiếp; còn sản phẩm của lao động sản xuất thì thu hồi được chi phí và tạo ra lợi tức ròng (lợi nhuận), có thể được sử dụng (hoang phí) hay đầu tư (căn cơ). Dân tộc sẽ giàu có thêm nếu trong thời gian đó số người sản xuất căn cơ nhiều hơn số người tiêu thụ hoang phí. Do hằng năm đều có đầu tư thêm cho nên nền kinh tế sẽ tạo thêm công ăn việc làm (tăng tiền công cho người lao động và lan truyền sự giàu có xuống số đông người nghèo khổ nhất), tức là làm gia tăng “nhu cầu, tiện nghi và thú vui của đời sống”.

Đáng tiếc là sự sụp đổ của đế chế La Mã đã làm gián đoạn quá trình tự nhiên này và sau cả ngàn năm, trong khi nền kinh tế đã hồi sinh và đã có những lợi thế nhờ những cải tiến trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và tiềm năng công nghệ của thời Phục hưng trong lĩnh vực khoa học thì xã hội lại được xây dựng nên những định chế chính trị, trong đó có các giáo điều tôn giáo hợp pháp hóa những tư tưởng lợi thương sai lầm, tức là những tư tưởng cấm đoán quá trình tiến hóa tự nhiên của nền kinh tế.

Một nền tự do lí tưởng nhất lại thỏa hiệp với những bộ luật đòi phải đánh thuế thật nặng vào những mặt hàng nhập khẩu và cấm đoán thương mại tự do, các phường hội và cơ sở độc quyền chặn đứng những lợi ích mà xã hội có thể thu được từ việc tự do tham gia hoặc rút khỏi thị trường trên cơ sở cạnh tranh. Các đạo luật này còn ngăn cấm không cho người ta thực hiện quyền tự nhiên của con người (không được làm việc nếu chưa có thời gian tập sự đủ lâu), ngăn cản mua hoặc bán những món hàng không được sản xuất ở những địa điểm đặc thù nào đó; và trong khi theo đuổi ảo tưởng con buôn về cán cân thương mại, các đạo luật này đặt ra các loại thuế, hoàn thuế và thưởng cho xuất và nhập khẩu, có hại cho người tiêu dùng.

Đáng ngại là nhiều biện pháp cấm đoán với mục đích bảo đảm cho mức đầu tư ngày một gia tăng đã từng làm Adam Smith lo lắng vẫn còn hiện diện ngay trong thế kỉ XXI của chúng ta, những biện pháp này cũng đang được những nhà làm luật có tư tưởng lợi thương và những nhà chính trị mị dân ủng hộ. Ngày nay, trong nền kinh toàn cầu, khi mà sự nghèo đói tuyệt đối đã không còn tồn tại trong các nước đã phát triển như dưới thời Adam Smith, thì vấn đề nghèo đói tuyệt đối và tương đối trong các nước đang phát triển và chưa phát triển phải làm rung động trái tim của tất cả các nhà kinh tế học như nó đã từng làm rung động trái tim và khối óc của Adam Smith, một người mà nếu nhìn lại ta có thể coi là nhà kinh tế học đầu tiên trên thế giới.

Hầu như tất cả những cái gọi là lạc đề và giải thích cụ thể những điều được cho là nguyên nhân làm cho Của cải của các quốc gia có vẻ “khó hiểu” và “không liên quan” đến độc giả thời nay là do người ta đã không hiểu ý định của Smith. Ông không phải là tác giả của một cuốn sách viết về "những nguyên tắc của kinh tế học" với văn phong hiện đại - thời Smith còn sống chưa có môn học như thế. Ông chỉ viết một bản thu hoạch về quá trình tìm tòi của mình về ý nghĩa thực sự của của cải quốc gia, cái gì làm cho của cải gia tăng và thúc đẩy xã hội tiến tới thịnh vượng cũng như nguyên nhân làm cho xã hội không thể tiến bộ được. Cuốn sách của ông đã được xuất bản đúng lúc. Đấy chính là thiên tài của ông và cũng là di sản ông để lại cho chúng ta. Cuốn sách của Eamonn Buter là cơ hội tốt nhất để bạn hiểu tại sao lại như thế.

Chú thích:

(1) Khi tác phẩm này được xuất bản Craig Smith là giảng viên khoa Luân lí học tại Đại học St Andrew.

(2) Có lẽ tác giả muốn nói đến Giáo Sự William Ballantyne Hodgson (1815 - 1880), người đầu tiên giữ chức Trường khoa Thương mại, kinh tế chính trị học và luật thương mại do Công ty thương mại Edinburgh lập ra vào năm 1870.

(3) Gavin Kennedy là Giáo sư danh dự của Đại học Heriot-Watt và tác giả cuốn Adam Smith's Lost Legacy, được Palgrave Macmillan xuất bản năm 2005.

Nguồn: Eamonn Butler (2007). Khảo lược Adam Smith. Phạm Nguyên Trường dịch. NXB Tri Thức. Nguyên tác: "Adam Smith-A Primer" (2007)

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường