[Giải phẫu Nhà nước] Nhà nước vượt qua các giới hạn đặt lên nó như thế nào

[Giải phẫu Nhà nước] Nhà nước vượt qua các giới hạn đặt lên nó như thế nào

Như Bertrand de Jouvenel đã thông thái chỉ ra, qua bao thế kỷ con người đã hình thành nên những khái niệm để kiềm chế và giới hạn việc thực thi quyền cai trị của Nhà nước; và bằng cách sử dụng các đồng minh trí thức, hết Nhà nước này đến Nhà nước khác có thể biến những khái niệm này thành những "bình phong" trí tuệ để làm cho hành động của nó trở nên hợp pháp và có đạo đức. Ban đầu, ở Tây Âu, theo khái niệm quyền lực do Chúa ban tặng, các vị vua chỉ có thể cai trị theo luật thánh; họ biến khái niệm ấy thành một con dấu “củ khoai” rằng họ được thánh thần phê chuẩn bất kỳ hành động nào của mình. Khái niệm dân chủ nghị viện ban đầu được đặt ra như một biện pháp kiềm chế đối với nền quân chủ chuyên chế tuyệt đối; cuối cùng, nghị viện trở thành bộ phận thiết yếu của Nhà nước và mọi hành động của nó đều trở thành tối cao. Như de Jouvenel kết luận:

Nhiều tác giả viết về các lý thuyết về quyền lực tối cao đã tìm ra một… trong những công cụ hạn chế quyền lực này. Nhưng cuối cùng, mọi lý thuyết sớm hay muộn đều đánh mất mục đích ban đầu của nó, và có xu hướng thể hiện vai trò đơn thuần như bàn đạp tới Quyền lực, bằng cách trang bị cho nó một công cụ trợ giúp đầy sức mạnh, đó là quyền lực tối cao vô hình, để cùng với thời gian, nó có thể đồng nhất sức mạnh đó với chính nó.1

Tương tự với các học thuyết cụ thể hơn: “quyền tự nhiên” được soi sáng trong các tác phẩm của John Locke và Tuyên Ngôn Nhân Quyền đã trở thành một “quyền được hưởng” của những người theo chủ nghĩa nhà nước; chủ nghĩa công lợi để họ quay lưng lại với những luận cứ vì tự do sang những luận cứ chống lại sự phản kháng các cuộc xâm phạm quyền tự do do Nhà nước tiến hành, v.v.

Nỗ lực tham vọng nhất nhằm áp đặt giới hạn đối với Nhà nước chắc chắn là Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và những điều khoản hạn chế khác trong Hiến pháp Mỹ, trong đó những giới hạn bằng văn bản đối với chính quyền đã trở thành điều luật căn bản được diễn giải bởi một cơ quan tư pháp được cho là độc lập với những cơ quan khác của chính phủ. Tất cả người Mỹ đều quen thuộc với quá trình nới rộng những giới hạn được thiết lập trong Hiến pháp trong thế kỉ vừa qua. Nhưng ít có người nhìn thấu được, giống như Giáo sư Charles Black, rằng Nhà nước theo thời gian đã biến phần lớn hoạt động giám sát tư pháp từ một công cụ hạn chế quyền lực thành một công cụ khác để mang lại tính hợp pháp về tư tưởng cho những hành động của chính quyền. Bởi nếu một sắc lệnh tư pháp nói rằng “vi hiến” là biện pháp kiềm chế mạnh mẽ đối với quyền lực chính quyền, thì một phán quyết nói rằng “hợp hiến”, dù công khai hay ngấm ngầm, lại là một vũ khí mạnh mẽ để thúc đẩy sự chấp nhận của công chúng đối với quyền lực ngày càng lớn của chính quyền.

Giáo sư Black bắt đầu phân tích bằng cách chỉ ra nhu cầu cốt yếu về “tính hợp pháp” đối với bất kỳ chính quyền nào muốn tồn tại được; sự hợp pháp  hóa này biểu hiện sự chấp thuận cơ bản của đa số đối với chính quyền và những hoạt động của nó.2 Sự chấp thuận có được từ tính hợp pháp trở thành một vấn đề đặc thù ở quốc gia như nước Mỹ, nơi mà “những hạn định đáng kể về quyền lực được xây dựng thành lý thuyết làm điểm tựa cho chính quyền.” Black bổ sung thêm, thứ chính quyền cần là một phương tiện mà chính quyền có thể dùng để đảm bảo với công chúng rằng quyền lực ngày càng gia tăng của họ thực sự là “hợp hiến.” Và ông kết luận đây là chức năng mang tính lịch sử chủ chốt của hoạt động giám sát tư pháp.

Hãy xem Black minh họa vấn đề:

“Nguy cơ lớn nhất [đối với chính quyền] là thái độ bất mãn, phẫn nộ rộng rãi trong dân chúng, và vì thế, chính quyền đánh mất thẩm quyền đạo đức, bất kể nó có thể dùng vũ lực, hay cừ ỳ ra, hay chẳng tìm ra lựa chọn thay thế nào khác khả dĩ và hấp dẫn. Hầu như bất kỳ ai sống dưới một chính phủ mà ở đó quyền lực bị giới hạn, sớm hay muộn cũng phải chịu đựng một số hành động nào đó của chính phủ mà, theo quan điểm cá nhân, họ sẽ xem đó là điều nằm ngoài quyền lực của chính phủ hoặc cấm chính phủ thực hiện. Một người vẫn bị bắt quân dịch, dù cho anh ta không thấy trong Hiến pháp nhắc đến việc phải thực hiện quân dịch.... Một nông dân được thông báo anh ta được phép trồng bao nhiêu lúa mì; cho dù anh ta tin, và phát hiện ra một số luật sư đáng kính cũng tin giống anh ta, rằng chính quyền không có quyền nói anh ta được trồng bao nhiêu lúa mì, tựa như việc chính quyền không có quyền bảo con gái anh ta cưới ai vậy. Một người phải vào nhà tù liên bang vì nói ra những gì anh ta muốn, anh ta bước vào phòng giam và nhẩm đọc... “Quốc hội không được phép ban hành điều luật nào cấm hoặc ngăn cản quyền tự do ngôn luận.”... Một doanh nhân được cho biết mình có thể xin phép, và phải xin phép, sản xuất váng sữa.

Đây là mối nguy có thật khi mỗi người trong số những người này (còn ai không nằm trong số họ chứ?) sẽ đối chiếu khái niệm về hạn chế quyền lực của chính quyền với thực tế (như họ nhìn nhận) đầy những vi phạm trắng trợn các giới hạn, và rút ra kết luận rõ ràng về vị thế của chính quyền dưới góc độ của tính hợp pháp.3

Mối nguy này bị đẩy lùi nhờ  một học thuyết được Nhà nước cổ xuý, đó là phải có một cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định cuối cùng về tính hợp hiến và cơ quan này, sau khi phân tích thấu đáo, phải là một phần của chính quyền liên bang.4 Bởi vì rằng trong khi sự độc lập bề ngoài của cơ quan tư pháp liên bang đóng một vai trò quan trọng trong việc biến những hành động của mình thành một thứ như Kinh Thánh đối với đa số dân chúng, nhưng cũng đúng là nhánh tư pháp vẫn là một cơ quan không tách rời của bộ máy chính quyền; nó được chỉ định bởi các nhánh lập pháp và hành pháp. Black thừa nhận điều này có nghĩa là Nhà nước đã tự phong mình thành thẩm phán của chính mình, do đó, vi phạm nguyên tắc pháp lý cơ bản trong việc nhắm đến những quyết định công bằng. Ông thẳng thừng phủ nhận khả năng có bất kỳ một giải pháp thay thế nào khác.5

Black bổ sung:

Do đó, vấn đề là phải đề ra được cách thức chính phủ đưa ra quyết định sao cho [hi vọng] làm giảm đến mức tối thiểu việc phản đối việc chính phủ tự xét xử chính mình. Khi làm được như vậy, ta chỉ có thể hi vọng rằng sự phản đối này, dù trên lý thuyết vẫn thuyết phục [in nghiêng là của tôi], nhưng trên thực tế, sẽ chẳng còn mấy sức mạnh, và vì thế công việc hợp pháp hóa thiết chế ra quyết định sẽ được dân chúng chấp nhận.6

Trong phân tích cuối cùng, Black nhận thấy rằng việc tạo ra tính công bằng và hợp pháp cho quyền năng vĩnh cửu tự phán xét chính mình của Nhà nước là “một thứ gì đó tựa như phép màu.”7

Áp dụng luận điểm của mình vào cuộc đối đầu nổi tiếng giữa Tòa án Tối cao và Chính sách kinh tế mới (New Deal), Giáo sư Black nghiêm khắc chỉ trích những đồng sự ủng hộ Chính sách Kinh tế mới vì sự thiển cận của họ trong việc phản đối kịch liệt sự cản trở từ nhánh tư pháp:

Phiên bản phổ biến của câu chuyện đối đầu giữa Chính sách Kinh tế mới và Tòa án, mặc dù chính xác theo cách riêng của nó, nhưng lại bỏ qua vấn đề quan trọng.... Nó tập trung vào những khó khăn và gần như quên mất toàn bộ sự việc diễn ra như thế nào. Kết quả của sự việc là [và đây là điều tôi muốn nhấn mạnh] sau khoảng 24 tháng lẩn tránh... Tòa án Tối cao, không có một thay đổi trong điều luật về cơ cấu tổ chức hoặc ngay cả về nhân sự thực tế của nó, đã đóng con dấu khẳng định tính hợp pháp lên Chính sách Kinh tế mới và toàn bộ khái niệm mới về chính quyền ở Mỹ.8

Như vậy, Tòa án Tối cao đã làm câm nín số đông người Mỹ phản đối mạnh mẽ tính hợp hiến của Chính sách Kinh tế mới:

Tất nhiên, không phải ai cũng hài lòng. Những người thuộc phái Hoàng tử Bonnie Charlie ủng hộ tư tưởng nền kinh tế tự do cần phải được hiến pháp hoá vẫn khuấy động trái tim của một số ít những kẻ quá khích trên miền Cao nguyên tìm kiếm trạng thái sự phi thực tế đầy sục sôi. Nhưng nghi ngờ của công chúng về quyền lực của Quốc hội theo hiến định trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế quốc gia không còn đáng kể và nguy hiểm nữa. ...

Chúng ta không có phương tiện nào khác ngoài Tòa án Tối cao để truyền đạt tính hợp pháp cho Chính sách Kinh tế mới.9

Giống như Black, một nhà lý luận chính trị lớn từ rất sớm đã nhận ra lỗ hổng rõ ràng về giải pháp hạn chế mang tính hiến định đối với chính phủ khi trao quyền lực diễn giải cuối cùng cho Tòa án Tối cao, và đó là John C. Calhoun. Calhoun không bằng lòng với “phép màu,” mà thay vào đó ông đã tiếp tục đi tới một phân tích sâu sắc về vấn đề hiến định. Trong tiểu luận nhan đề Disquisition, Calhoun chỉ rõ khuynh hướng cố hữu của Nhà nước trong việc vượt qua những giới hạn được thiết lập trong một hiến pháp như vậy:

“Một hiến pháp thành văn chắc chắn có nhiều lợi thế đáng kể, nhưng thật là một sai lầm lớn khi cho rằng việc đơn thuần đưa ra những điều khoản để hạn chế và giới hạn quyền lực của chính phủ - mà không trao quyền thi hành giám sát cho những người được bảo vệ bởi những điều khoản ấy [chữ in nghiêng là của tôi] - sẽ là đủ để ngăn chặn đảng chiếm đa số, đảng cầm quyền lạm dụng quyền lực của nó. Là đảng cầm quyền, họ sẽ, từ chính hiến pháp do con người đặt ra nhằm thể hiện sự cần thiết của chính quyền trong việc bảo vệ xã hội, ủng hộ những quyền lực được hiến pháp ban cho và phản đối những giới hạn đặt ra nhằm kiềm chế họ. ... Trong khi đó, đảng nhỏ hoặc yếu thế hơn sẽ theo chiều hướng ngược lại, nhìn nhận chúng [những giới hạn] như một điều thiết yếu để bảo vệ mình trước đảng cầm quyền. ... Nhưng khi họ không có biện pháp nào để buộc đảng cầm quyền tuân theo những giới hạn, biện pháp duy nhất mà họ trông cậy là xây dựng một hiến pháp chặt chẽ.... Đảng cầm quyền sẽ chống lại việc xây dựng bản hiến pháp bảo vệ tự do để đối chọi với biện pháp này. ... Đó sẽ là hai biện pháp xây dựng hiến pháp đối lập nhau - một thu hẹp, một mở rộng tối đa những quyền lực của chính quyền. Nhưng việc xây dựng hiến pháp chặt chẽ của đảng nhỏ sẽ có lợi thế gì trước hành động chống lại việc xây dựng bản hiến pháp bảo vệ tự do của đảng chính, khi một bên có mọi quyền lực của chính quyền để hiện thực hóa việc xây dựng của mình và bên kia bị tước mọi phương tiện để thi hành việc xây dựng của mình? Trong một cuộc đấu tranh bất bình đẳng như vậy, kết quả sẽ không có gì khó đoán. Đảng ủng hộ sự giới hạn sẽ bị áp đảo. ... Kết thúc cuộc tranh giành ấy sẽ là sự lật đổ hiến pháp ... những hạn chế cuối cùng sẽ bị bãi bỏ và chính quyền sẽ có quyền lực vô hạn.10

Một trong số ít những nhà khoa học chính trị đánh giá cao phân tích của Calhoun về Hiến pháp là Giáo sư J. Allen Smith. Smith nhận xét rằng Hiến pháp được thiết kế chứa đựng những biện pháp kiểm soát và đối trọng để giới hạn bất kì một quyền lực nào của chính quyền, thế nhưng nó lại lập ra Tòa án Tối cao nắm giữ quyền lực độc tôn trong việc đưa ra diễn giải cuối cùng về quyền lực. Nếu Chính quyền Liên bang được thành lập để kiểm soát sự xâm phạm quyền tự do cá nhân của các bang riêng rẽ, vậy ai sẽ kiểm soát quyền Liên bang? Smith khẳng định rằng ẩn sâu trong ý tưởng kiểm-soát-và-đối-trọng của Hiến pháp đồng thời cũng là quan điểm cho rằng không một nhánh nào của chính quyền có thể được trao cho quyền diễn giải cuối cùng về quyền lực: “Người dân cho rằng chính quyền mới không thể được phép xác định những giới hạn về thẩm quyền của chính nó, bởi điều đó sẽ khiến nó, chứ không phải Hiến pháp, có quyền lực tối cao.”11

Giải pháp được đưa ra bởi Calhoun (và được những tác giả như Smith trong thế kỷ này tán thành) tất nhiên chính là học thuyết nổi tiếng “đa số đồng thuận” (concurrent theory). Nếu một nhóm thiểu số quan trọng của đất nước, cụ thể là chính quyền bang, tin rằng Chính quyền Liên bang đang vượt quá quyền hạn của mình và xâm phạm đến nhóm thiểu số đó, nhóm thiểu số sẽ có quyền phủ quyết vì việc thực thi quyền lực này là vi hiến. Lý thuyết này được áp dụng với các chính quyền bang, mang hàm ý về quyền “vô hiệu hóa” một điều luật hoặc phán quyết của Liên bang trong phạm vi quyền hạn của bang.

Trên lý thuyết, hệ thống hiến định, theo đó sẽ đảm bảo việc Chính quyền Liên bang kiểm soát sự xâm phạm các quyền cá nhân của từng bang, trong khi các bang kiểm soát sự vượt quá quyền hạn của Liên bang đối với các cá nhân. Tuy nhiên, mặc dù những giới hạn này chắc hẳn sẽ hiệu quả hơn hiện tại, vẫn có những khó khăn và vấn đề trong giải pháp của Calhoun. Nếu thực sự một tập thể cấp dưới có quyền phủ quyết những vấn đề liên quan đến nó thì tại sao lại chỉ dừng lại ở cấp độ bang? Tại sao không đặt quyền phủ quyết ở các phường, quận, thành phố? Hơn nữa, các nhóm lợi ích không chỉ mang tính địa phương mà còn mang tính nghề nghiệp, xã hội, v.v. Những người thợ làm bánh, tài xế taxi hay những nghề nghiệp khác thì sao? Họ không được phép phủ quyết với những vấn đề trong cuộc sống của mình hay sao? Điều này đưa chúng ta đến một luận điểm quan trọng, rằng thuyết vô hiệu hóa giới hạn cần hướng đến việc kiểm soát của nó đối với các cơ quan chính quyền. Đừng quên rằng chính quyền liên bang và bang cùng với các nhánh của chúng vẫn thuộc về các nhà nước, vẫn được dẫn dắt bởi lợi ích của nhà nước chứ không phải bởi lợi ích của người dân. Điều gì sẽ ngăn cản hệ thống của Calhoun hoạt động theo chiều hướng ngược lại, nghĩa là các bang sẽ áp chế người dân và chỉ phủ quyết chính quyền liên bang khi nó tìm cách can thiệp nhằm chấm dứt chế độ chuyên chế của bang đó? Hay là để các bang chấp nhận chế độ chuyên chế? Điều gì sẽ ngăn cản các chính quyền liên bang và bang thành lập liên minh có lợi cho cả đôi bên để cùng bóc lột người dân? Và ngay cả nếu các nhóm nghề nghiệp tư nhân được trao cho một số hình thức đại diện “thiết thực” trong chính phủ thì điều gì sẽ ngăn cản họ lợi dụng Nhà nước để hưởng trợ cấp và những đặc quyền khác cho mình, hoặc ngăn cản họ đặt ra những cartel (thoả thuận thông đồng) để cưỡng bức những thành viên của chính họ?

Tóm lại, Calhoun phát triển lý thuyết đột phá của mình về sự đồng thuận đi đủ xa: ông không phát triển nó xuống cấp độ cá nhân. Xét cho cùng, nếu mỗi cá nhân là người có quyền được bảo vệ thì lý thuyết nhất quán về sự đồng thuận sẽ bao hàm quyền phủ quyết của mọi cá nhân; đó là một dạng “nguyên tắc hoàn toàn nhất trí”. Khi Calhoun viết rằng “không thể cho phép hoặc duy trì nó [chính quyền] hoạt động mà không có sự phê duyệt đồng thuận của tất cả,” có lẽ ông đã không chủ định đưa ra một kết luận như vậy.12 Nhưng những suy đoán như vậy cũng bắt đầu cuốn chúng ta đi, bởi theo chiều hướng ấy là những hệ thống chính trị khó có thể được gọi là “Nhà nước.13 Vì một lẽ: quyền vô hiệu hóa quyết định của bang theo logic sẽ bao hàm quyền ly khai, nên quyền vô hiệu hóa của cá nhân sẽ bao hàm quyền “ly khai” của bất kỳ cá nhân nào khỏi Quốc gia mà người đó sinh sống.14

Do đó, Nhà nước luôn thể hiện tài năng nổi bật trong việc mở rộng quyền lực vượt qua bất kì giới hạn nào có thể đặt lên nó. Bởi Nhà nước nhất thiết phải sống nhờ vào sự tịch thu bắt buộc tư bản tư nhân, và bởi sự mở rộng của nó nhất thiết phải liên quan đến những vụ xâm phạm ngày một lớn hơn đối với các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân, chúng ta phải khẳng định rằng Nhà nước mang tính chất chống tư bản một cách sâu sắc và cố hữu. Theo nghĩa nào đó, lập trường của chúng ta ngược lại với quan điểm của chủ nghĩa Mác xít cho rằng Nhà nước là “ủy ban điều hành” của giai cấp thống trị ngày nay, được cho là các nhà tư bản. Thay vào đó, Nhà nước - tổ chức của những phương tiện chính trị - thành lập và là nguồn gốc của “giai cấp thống trị” (hay đúng hơn là tầng lớp cai trị có đặc quyền), và vĩnh viễn đối lập với tư bản tư nhân đúng nghĩa. Do đó, chúng ta có thể nói với de Jouvenel:

Chỉ những người không hay biết về thời đại nào khác ngoài thời đại của chính họ, những người hoàn toàn mù tịt về cách thức hành xử của Quyền lực qua hàng nghìn năm, mới coi những hoạt động này [quốc hữu hóa, thuế thu nhập, v.v.] là hệ quả của một tập hợp học thuyết đặc thù. Trên thực tế, chúng là những hiện thân thông thường của Quyền lực, và về bản chất, không khác gì với sự tịch thu các tu viện của Henry VIII. Đó vẫn là cùng một nguyên tắc; sự thèm khát quyền lực và nguồn lực; và trong tất cả các hoạt động này đều có các đặc điểm giống nhau, bao gồm cả sự leo thang nhanh chóng của những kẻ ăn chia chiến lợi phẩm. Dù cho đó có là Xã hội chủ nghĩa hay không, Quyền lực luôn đối đầu với những thiết chế tư bản và tước đoạt của cải tích lũy của tư bản; khi làm như vậy, nó tuân theo quy luật tự nhiên của nó.15

Chú thích:

(1) De Jouvenel, On Power, từ tr. 27.

(2) Charles L. Black. Jr., The People and the Court (New York: Macmillan, 1960), từ tr. 35.

(3) Đã dẫn, tr. 42-43.

(4) Đã dẫn, tr. 52:

Chức năng cốt yếu và cần thiết nhất của Tòa án [Tối cao] là chức năng phê chuẩn, không phải chức năng bác bỏ. Điều mà một chính quyền có quyền lực bị giới hạn cần đến, ngay từ đầu và mãi mãi, là một phương tiện nào đó để thỏa mãn người dân rằng nó đã thực hiện mọi cách có thể để giữ mình trong phạm vi quyền lực của nó. Đây là điều kiện cho tính hợp pháp của nó; và tính hợp pháp của nó, về lâu dài, là điều kiện tồn tại của nó. Và Tòa án, trong suốt lịch sử, đã đóng vai trò là cơ quan hợp pháp hóa của chính quyền.

(5) Đối với Black, “giải pháp” này, tuy mâu thuẫn, nhưng vô tình vẫn thật hiển nhiên:

quyền lực cuối cùng của Nhà nước... phải dừng ở nơi luật pháp ngăn nó lại. Và ai sẽ đặt ra giới hạn, và ai sẽ thực thi ngăn chặn quyền lực mạnh mẽ nhất? Tất nhiên, tại sao bản thân Nhà nước lại làm thế với mình thông qua những thẩm phán và bộ luật của nó. Ai kiểm soát tâm thái? Ai dạy bảo những kẻ khôn ngoan? (Đã dẫn, tr. 32-33)

Và:

Đối với những vấn đề liên quan đến quyền lực chính quyền của một quốc gia có chủ quyền, việc lựa chọn một người bên ngoài chính quyền để phân xử là bất khả. Mọi chính quyền quốc gia, miễn đó là một chính quyền, đều phải có phán quyết sau cùng đối với quyền lực của chính nó. (Đã dẫn, tr. 48-49)

(6) Đã dẫn, tr. 49.

(7) Sự quy kết những điều kỳ diệu này đối với chính quyền gợi nhớ đến việc James Burnham biện minh cho chính quyền bằng sự thần bí và phi lý:

Trong thời cổ đại, trước khi những ảo tưởng khoa học làm lệch lạc trí tuệ truyền thống, những người sáng lập ra các thành phố được xem là thần hay á thần. . . . Cả nguồn gốc hay biện minh về chính quyền đều không thể lí giải trọn vẹn bằng lý trí ... Vì sao tôi phải chấp nhận tính cha truyền con nối, tính dân chủ hay bất kì một nguyên tắc chính thống nào khác? Vì sao một nguyên tắc lại biện minh cho sự thống trị của người đó đối với tôi? . . . Tôi chấp nhận nguyên tắc,…bởi vì tôi chấp nhận nó, bởi vì đó là lề lối phải theo. Theo James Burnham, Congress and the American Tradition (Chicago: Regnery, 1959), tr. 3-8. Nhưng nếu có người không chấp nhận nguyên tắc đó thì sao? Khi đó “lề lối” là gì?

(8) Black, The People and the Court, tr. 64.

(9) Đã dẫn, tr. 65

(10) John C. Calhoun, A Disquisition on Government (New York: Liberal Arts Press, 1953), tr. 25-27. Tham khảo thêm Murray N. Rothbard, “Conservatism and Freedom: A Libertarian Comment,” Modern Age (Mùa xuân, 1961): 219.

(11) J. Allen Smith, The Growth and Decadence of Constitutional Government (New York: Henry Holt, 1930), tr. 88. Smith bổ sung:

rõ ràng là trong trường hợp một điều khoản của Hiến pháp được dưa ra nhằm hạn chế quyền lực của một bộ máy chính quyền, nó có thể hoàn toàn bị vô hiệu hóa nếu sự diễn giải và thi hành điều khoản ấy nằm trong tay các cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm hạn chế quyền lực của chính quyền. Rõ ràng, lý lẽ thường tình đòi hỏi rằng không một cơ quan nào của chính quyền có thể xác lập quyền lực của chính nó.

Rõ ràng, lẽ thường và “phép màu” định ra những góc nhìn rất khác nhau về chính quyền. (tr.87)

(12) Calhoun, A Disquisition on Government, tr. 20–21.

(13) Trong những năm gần đây, nguyên tắc nhất trí đã trải qua một thời kỳ phục hưng hết sức nhạt nhòa, cụ thể như trong những bài viết của Giáo sư James Buchanan. Tuy nhiên, sự tiêm nhiễm nguyên tắc nhất trí vào tình hình hiện nay, và áp dụng nó vào những thay đổi trong hiện trạng chứ không phải những điều luật hiện hành, chỉ có thể dẫn đến việc chuyển đổi khái niệm giới hạn quyền lực thành một con dấu cheo cho Nhà nước. Nếu nguyên tắc nhất trí là để chỉ áp dụng cho những thay đổi trong luật và sắc lệnh, thì bản chất của “điểm xuất phát” ban đầu mới tạo nên sự khác biệt. Tham khảo James Buchanan và Gordon Tullock, The Calculus of Consent (Ann Arbor: University of Michigan Press, 1962).

(14) Tham khảo Herbert Spencer, “The Right to Ignore the State,” in Social Statics (New York: D. Appleton, 1890), tr. 229–39.

(15) De Jouvenel, On Power, tr. 171.

Nguồn: Murray N. Rothbard, Anatomy of the State, Chương 4, Mises Institute, 2009.

 

Dịch giả:
Lê Thị Hồng Nhung
Hiệu đính:
Nguyễn Ngọc Minh Châu