[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 2)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 2)

PHÂN TÍCH CƠ BẢN VỀ CẤM ĐOÁN 

Những biện pháp cấm đoán được thiết kế nhằm ngăn chặn việc sản xuất, trao đổi và tiêu thụ một món hàng mà mục tiêu cuối cùng là xóa sổ món hàng đó. Trong khi cấm đoán là một hình thức can thiệp bất bình thường và cực đoan của chính phủ, thì tác động của nó có thể được phân tích trong khuôn khổ của những chính sách can thiệp khác như thuế khóa hoặc luật lệ.

Những biện pháp trừng phạt như phạt tiền, tịch thu tài sản và bỏ tù được lập ra nhằm ngăn chặn hoạt động trên thương trường. Muốn thực thi các biện pháp cấm đoán thì phải sử dụng các nguồn lực để các hình phạt trở thành hiệu quả thì mới ngăn chặn được những hoạt động này. Sự chuyển hướng những lực lượng thực thi hiện hành có thể tạo được một số tiết kiệm nhưng không loại bỏ được nhu cầu phải có thêm nguồn lực. Nguồn lực dành cho việc thực thi những biện pháp cấm đoán sẽ (với cơ cấu những biện pháp trừng phạt cho trước) quyết định mức độ rủi ro mà những người tham gia thị trường phải đối mặt và do đó những biện pháp cấm đoán sẽ có ảnh hưởng đối với sản xuất và tiêu thụ.

Cấm đoán là một chính sách làm giảm cung. Hậu quả của nó là người sản xuất sẽ gặp khó khăn hơn trong việc cung cấp cho thị trường một sản phẩm cụ thể nào đó. Cấm đoán ít ảnh hưởng tới cầu bởi vì nó không làm thay đổi một cách trực tiếp thị hiếu hay thu nhập của người tiêu dùng. Nhưng khi cung giảm thì giá sản phẩm sẽ tăng lên, lượng câu sẽ giảm, và những người có nhu cầu sẽ chuyển sang những sản phẩm thay thế. Ví dụ, người dùng ma tuý có thể chuyển sang uống rượu và thuốc an thần vì giá của chúng trở nên thấp hơn khi so với giá ma túy sau khi thi hành
những biện pháp cấm đoán.

Hậu quả trực tiếp của những biện pháp cấm đoán là tổn thất cho cả người tiêu dùng lẫn người sản xuất sản phẩm đó. Người tiêu dùng mất độ thỏa dụng vì giá cao hơn và phải thay thế bằng những loại hàng hóa có giá trị thấp hơn. Nhà sản xuất mất thu nhập và độ thỏa dụng vì phải chấp nhận làm ngành nghề khác với nghề mà họ có lợi thế so sánh. Kết quả được thể hiện trên Hình 1.

Khi nguồn lực được phân bổ cho việc thực thi và những biện pháp cấm đoán có hiệu lực, nguồn cung sản phẩm sẽ giảm (đường cung dịch sang bên trái). Người tiêu dùng bị thiệt hại vì giá cao hơn, mất thặng dư tiêu dùng và phải sử dụng sản phẩm thay thế có giá trị thấp hơn. Người sản xuất cũng bị thiệt hại tương tự vì họ phải tăng chi phí sản xuất và nhiều rủi ro hơn. hoặc bị thiệt hại vì phải chuyển sang những ngành nghề không mong muốn.

Mục tiêu cuối cùng của cấm đoán là xóa sổ nguồn cung của một loại hàng hóa nào đó. Thật khó tưởng tượng nổi kết quả này khi không có những thay đổi căn bản trong “lối sống Mĩ” mà những biện pháp cấm đoán được đưa ra nhằm bảo vệ. Từ quan điểm thực tiễn, người ta sẽ tìm cách thực hiện nó ở mức tối ưu, hoặc so sánh chi phí-hiệu quả của quá trình thực thi, chứ không phải thực thi một cách trọn vẹn.

Hiệu quả trong kinh tế học là tìm kiếm nhằm cân bằng giữa chi phí cận biên cho một hoạt động với lợi ích cận biên của nó. Đối với cá nhân, điều này có nghĩa là số lượng táo được tiêu thụ phụ thuộc vào từng quả táo được đánh giá cao hơn chi phí cho nó. Trong lĩnh vực chính sách công tình hình phức tạp hơn.

Nói một cách đơn giản, chi phí cận biên cho việc cấm đoán một đơn vị sản phẩm là chi phí cần thiết cho việc thực thi pháp luật nhằm mang lại kết quả này. Mỗi đô-la chỉ cho việc thực thi những biện pháp cấm đoán có nghĩa là số tiền có thể được dành cho những chính sách công khác như quốc phòng, nhà ở cho người vô gia cư, hoặc ưu tiên ưu đãi khác sẽ giảm đi một đô-la. Nếu tăng thuế lên để tài trợ cho việc thực thi những biện pháp cấm đoán thì người dân sẽ có ít tiền để chi tiêu cho thực phẩm, bảo hiểm y tế, và mua vé số hơn trước. Ban đầu, việc ban hành những biện pháp cấm đoán, sử dụng năng lực thực thi vượt mức, và sự tồn tại của những người sử dụng cận biên làm cho chi phí cho việc thực thi cấm đoán có hiệu quả cao. Ngoài ra, những nguồn lực này có thể được chuyển đến từ những chính sách kém quan trọng hoặc từ chi tiêu của người tiêu dùng và do đó có thể thu được với giá thấp hơn. Sau những điều kiện ban đầu này, chi phí cho lực lượng thực thi sẽ gia tăng, hiệu suất giảm, và giá của những nguồn lực đã cạn kiệt sẽ tăng thêm. Do đó, chi phí cận biên cho những biện pháp cấm đoán nhiều hơn ngày càng gia tăng, như minh họa trong Hình 2.

Nếu không để ý đến những thiệt hại gây ra cho người tiêu dùng, chúng ta cũng có thể khái quát hóa lợi ích của những biện pháp cấm đoán. Giá trị của đơn vị hàng hóa đầu tiên là có giá trị cao nhất. Những đơn vị hàng hóa tiếp theo có mức độ hài lòng (độ thỏa dụng) giảm dần. Qui luật lợi ích cận biên giảm dần này là một định đề kinh tế học cơ bản, dàng để mô tả về lợi ích của những biện pháp cấm đoán.

Những người hoạch định chính sách phải tìm được mức tối ưu của việc thực thi bằng cách xác định những lợi ích mà việc thực thi mang lại (trong việc ngăn chặn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bị cấm) và những chi phí cho nỗ lực này (hiện nay chỉ giới hạn ở những chi phí trực tiếp của việc thực thi). Bằng cách sử dụng “biện pháp tiếp cận truyền thống” được mô tả bên trên để thực hiện những quyết định này, họ có thể chỉ ra được mối quan hệ giữa chi phí của việc thực thi pháp luật và giá cả và số lượng của sản phẩm bị cấm. Kết quả đạt được sẽ giải thích vì sao ở các nước dân chủ cấm đoán không bao giờ được thi hành một cách trọn vẹn – chi phí cho việc thực thi một cách trọn vẹn vượt xa lợi ích thu được.

Phương pháp tiếp cận chính sách theo lối truyền thống dựa trên những phân tích trước đó, tập trung sự chú ý vào việc thiết lập mức độ thực thi tối ưu và xác định hình thức phù hợp cũng như bộ máy quản lí việc thực thi. Phương pháp tiếp cận này cũng tìm cách cân bằng giữa chi phí thực thi và chính sách nhằm làm giảm cầu, thí dụ như giáo dục về ma túy.

Trải qua nhiều thập kỷ với những kinh nghiệm đau đớn và đắt giá, chúng ta đã có nhiều hiểu biết hơn về cấm đoán. Ví dụ, có một nhận xét đáng lưu ý là người nghiện ma túy đôi khi tham gia những hoạt động tội phạm nhằm kiếm tiền trả cho những sản phẩm bị cấm với giá khá cao. Phương pháp tiếp cận truyền thống là phân tích tĩnh, tức là phương pháp vẫn giữ nguyên những giả định của phân tích tân cổ điển, thí dụ như một sản phẩm đồng nhất với chất lượng nhất định. Sự đơn giản hóa quá mức như như vậy tạo ra những hạn chế nghiêm trọng trong phân tích. Trường phái kinh tế học Áo, hay kinh tế học về vòng quay thị trường, trong trường hợp này, mang đến cho chúng ta những kiến thức lí thuyết chi tiết về cấm đoán.

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường