.jpg)
Chủ nghĩa hợp hiến (Phần 2)
Chủ quyền về nhân dân
“Chúng tôi Nhân dân… quy định và lập ra Hiến pháp này.” Những từ đó trong phần Dẫn nhập của Hiến pháp diễn tả chủ thuyết chủ quyền về nhân dân, hay là nhân dân cai trị. Các nhà lập hiến đã soạn thảo và đệ trình nhân dân phê chuẩn một văn kiện dùng để cai trị, dựa trên quan niệm là quyền chính trị tối hậu không phải thuộc về chính quyền hay bất cứ một viên chức nào trong chính quyền, mà là thuộc về nhân dân. “Nhân dân chúng tôi” là người sở hữu chính quyền, nhưng dưới chế độ đại diện dân chủ, chúng ta giao quyền cai quản công việc hàng ngày cho một tập thể các đại diện dân cử. Tuy nhiên, sự ủy quyền này không hề cản trở hay giảm bớt quyền và trách nhiệm của nhân dân với tư cách là người có thẩm quyền tối cao. Tính chất chính danh của chính quyền vẫn còn thuộc về người dân được cai trị, và người dân vẫn giữ quyền bất khả xâm phạm là họ có thể thay đổi chính quyền một cách hoà bình hay thay đổi Hiến pháp của họ.
Chế độ pháp trị
Tuy nhiên, theo chủ nghĩa hợp hiến, chính quyền phải ngay thẳng và theo lẽ phải, không những theo quan điểm của đa số quần chúng mà còn theo với một luật cao hơn mà bản Tuyên ngôn Độc lập gọi là “Luật Tự nhiên hay Luật Thượng đế của Tự nhiên”. Bộ Luật Tuyên cáo năm 1766, theo đó Quốc hội Anh tuyên bố quyền chiếm hữu thuộc địa Mỹ “…để ràng buộc (họ) trong bất cứ mọi vấn đề gì”, đã làm nổi bật sự tương phản giữa cai trị theo luật pháp và cai trị bằng luật pháp. Cai trị theo luật pháp hàm ý là phải hướng lên một nền công lý và luật pháp ở mức cao hơn (có tính chất siêu việt mà ai cũng hiểu) là mức bình thường của con người hay của luật mà các chính trị gia nhất thời ban hành. Các nhà lập quốc (Mỹ) tin rằng chế độ pháp trị là dòng máu nuôi sống trật tự xã hội Mỹ và các quyền tự do cơ bản của con người. Chế độ pháp trị cho rằng nếu quan hệ giữa chúng ta (và với nhà nước) được chi phối bởi một số luật lệ tương đối không thiên vị – thay vì bởi một nhóm người – thì sẽ bớt khả năng là chúng ta trở thành nạn nhân của một chế độ cai trị độc đoán hay chuyên quyền. Ở điểm này, cần ghi nhận là nghĩa vụ chính trị bao hàm trong pháp trị áp dụng không những cho các quyền và tự do của những người chịu quyền cai trị và công dân mà còn áp dụng cho cả những người có quyền cai trị và người lãnh đạo. Khi không cho cả cá nhân lẫn nhà nước vượt qua luật tối cao của đất nước các nhà soạn thảo hiến pháp lập ra một lớp chắn bảo vệ cho quyền và tự do cá nhân.
Phân chia quyền lực và hệ thống kiểm soát và cân bằng
Các nhà lập quốc (Mỹ) đã phải trả lời câu hỏi: vì cần có con người mới làm được công việc cai trị, thì làm sao thiết lập được một chế độ cai trị theo luật chứ không phải cai trị theo người? Tựu chung là vì các vị đó cũng là những nhà chính trị thực tế nên muốn gắn liền tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến vào những đặc điểm độc đáo đương thời của mình. Vấn đề nan giải vừa có tính chất triết lý vừa có tính chất thực tiễn này có lẽ được diễn tả rõ nhất bởi James Madison trong Luận cương Liên bang số 51. Madison nói rằng phải dùng tham vọng để trị tham vọng. Tư lợi của con người cần phải được gắn liền vào quyền do hiến pháp quy định. Chỉ cần hiểu biết một chút ít về bản chất của con người cũng cho ta thấy rằng “cần phải có những cơ chế như vậy mới ngăn chặn được sự lạm dụng quyền lực của chính quyền”. Nếu con người đều là thần thánh cả thì sẽ không cần có các cơ chế bên trong và bên ngoài để kiểm soát chính quyền. Nhưng Madison là con người thực tế. Cũng theo lời của Madison, chủ nghĩa hợp hiến đòi hỏi phải có một chính sách “dùng các sự mâu thuẫn và đối nghịch trong tư lợi để khai thác những điểm yếu của (luôn luôn có ngay cả trong) các động cơ cao thượng”. Một thể chế hợp hiến, xây dựng trong tinh thần khôn ngoan tôn trọng con người, cần phải cho chính quyền có thể kiểm soát được những người dưới quyền cai trị của chế độ. Tuy nhiên, đi đôi với điều đó, nhưng không kém phần quan trọng, là phải có một cơ cấu đề phòng để kiểm soát và giữ quân bằng ngay trong chính quyền (chính quyền tự kiểm soát lấy mình).
Bằng cách chia công việc cai trị ra cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo Hiến pháp Mỹ muốn giữ cho các quyền lực chính – lập pháp, hành pháp và tư pháp – không bị độc quyền nắm giữ bởi bất cứ một ngành nào. Phân bổ quyền cai trị cho ba ngành khác nhau cũng ngăn chặn việc chính quyền quốc gia lấn át quyền của các tiểu bang. Quyền lực và trách nhiệm của chính quyền đều được cố ý để cho chồng chéo lên nhau. Một thí dụ là quyền hạn làm luật của Quốc hội có thể bị chặn lại bởi quyền phủ quyết của tổng thống. Nhưng quyền phủ quyết này lại có thể bị bác bỏ bởi 2/3 số phiếu của cả hai viện. Tổng thống nắm quyền tổng tư lệnh quân đội nhưng chỉ có Quốc hội mới có quyền lập ra và hỗ trợ quân đội và có quyền chính thức tuyên chiến. Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán liên bang, đại sứ và các viên chức cao cấp trong chính quyền, nhưng mọi sự bổ nhiệm phải có sự tham vấn và chấp thuận của Thượng viện. Không một luật nào có hiệu lực nếu không được cả hai viện thông qua.
Tòa án tối cao có quyền tối hậu hủy bỏ các hành động trái với hiến pháp của cả lập pháp lẫn hành pháp. Đây là nguồn gốc của vai trò duyệt xét luật pháp và trao quyền cho giới thẩm phán liên bang tại Hoa Kỳ sau vụ Marbury kiện Madison (1803). Quyền duyệt xét lại luật pháp không phát xuất từ văn bản của Hiến pháp Mỹ (trong Hiến pháp không có minh thị đề cập tới thẩm quyền này) nhưng là từ một số phán xét của tòa vào những năm cuối của thế kỷ XVIII. Đặc điểm chung của tất cả các vụ phán xét đó là mối liên hệ giữa việc duyệt xét luật pháp và luật tối cao, ít ra là làm cơ sở có tính chất triết lý hay đạo đức để biện minh cho thẩm quyền của tòa án. Người Mỹ thời bấy giờ chắc đã tin theo một lời dạy của người xưa cho rằng nếu luật của con người đưa ra không thuận với luật tự nhiên thì không còn được coi là luật nữa mà đã trở thành một luật đã bị hủ hoá.
Ý tưởng này đã được James Otis [1] diễn đạt một cách ngắn gọn trong bài “Quyền của các thuộc địa Anh quốc đã được khẳng định và chứng minh” (Rights of British Colonies Asserted and Proved (1764)) như sau: “Luật tự nhiên không phải do con người tạo ra, mà con người cũng không có quyền sửa đổi luật đó. Con người chỉ có thể hoặc tuân theo và thi hành luật đó hoặc chống lại và vi phạm luật. Nhưng không bao giờ hành động chống lại hoặc vi phạm như vậy lại không bị trừng phạt; ngay cả trong cuộc đời này, sự trừng phạt đó có thể dưới hình thức khiến cho con người cảm thấy mình trở thành sa đọa, hay cảm thấy mình, vì sự điên rồ và ác độc của mình, đã bị đào thải ra khỏi tập thể của những người tốt và đạo đức (và bị đẩy) xuống hàng thú vật, hay là từ cương vị là người bạn, và có lẽ là người cha, của đất nước đã biến thành loài hung bạo như sư tử, hùm beo”[2].
Thể chế liên bang
Các nhà lập quốc (Mỹ) cũng quyết định là quyền lực phải được phân chia giữa các cấp chính quyền toàn quốc và tiểu bang. Sự thất bại của Các Điều khoản của Liên minh (1781-1787) để lập ra một chính phủ có thể hoạt động được tại thuộc địa Mỹ đã khiến cho các đại biểu trong cuộc Đại hội về Hiến pháp tại Philadelphia năm 1787 đặt thêm quyền lực tại trung tâm của chính quyền.
Các Điều khoản của Liên minh là một cách sắp xếp chuyển tiếp từ hệ thống chính quyền đầu tiên lập ra bởi Đại hội Toàn châu trong thời kỳ cách mạng sang hệ thống chính quyền liên bang lập ra bởi Hiến pháp Mỹ năm 1787. Vì đã từng thấy quá rõ tính chất áp chế của chính quyền trung ương nước Anh, nên các nhà soạn thảo Các Điều khoản của Liên minh cố tình lập ra một “liên minh” gồm các tiểu bang có chủ quyền. Tuy nhiên, các Điều khoản không cho Quốc hội có quyền buộc các tiểu bang phải đóng góp tiền và quân đội theo yêu cầu của Quốc hội nên tới cuối năm 1786, chính quyền đã mất hữu hiệu và trở nên hoàn toàn tê liệt.
Theo Hiến pháp Mỹ, thể chế liên minh (confederation) sẽ được thay thế bằng thể chế liên bang (federation), trong đó quyền lực sẽ được chia sẻ giữa một chính quyền toàn quốc và nhiều chính quyền tiểu bang. Chính quyền toàn quốc có quyền tối cao trong một số lĩnh vực nhưng tiểu bang không phải chỉ thuần tuý là các đơn vị hành chính của chính quyền trung ương. Quyền của các tiểu bang được bảo vệ bằng nhiều cách. Trước hết, bản Tu chính thứ 10 của Hiến pháp nói rõ là một số lĩnh vực hoạt động được dành riêng cho các tiểu bang. Chẳng hạn, chính quyền tiểu bang phần lớn chịu trách nhiệm quản lý ngân sách của mình và thực thi luật pháp trong nhiều lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng tới dân cư ngụ trong tiểu bang. Thứ hai là quyền đại diện của các tiểu bang tại Thượng viện cũng được bảo vệ.
Mỗi tiểu bang, dù lớn hay nhỏ, đều có hai nghị sĩ. Thứ ba là Cử tri đoàn (electoral college), tức là tổ chức chính thức bầu ra tổng thống, là một tập hợp của các cử tri do tiểu bang chọn, mỗi tiểu bang được quyền có tối thiểu ba người. Thứ tư là chính thể thức tu chính Hiến pháp cũng phản ánh quyền lợi của các tiểu bang, vì bất cứ một tu chính Hiến pháp nào cũng cần phải có sự chấp thuận của viện lập pháp của 3/4 số tiểu bang và 2/3 của đại diện dân cử của cả hai Viện. Các điều bảo vệ đó đều được ghi rõ trong Hiến pháp để giữ cho các tiểu bang nhỏ không bị lấn át bởi các tiểu bang lớn. Sự chia sẻ quyền lực giữa chính quyền tiểu bang và chính quyền toàn quốc là một sự kiểm soát có tính chất cơ cấu trong một hệ thống kiểm soát và cân bằng rất tinh tế.
Chú thích:
(1) James Otis (1725-1783): Luật sư tại Massachusetts khi Mỹ còn là thuộc địa của Anh. Ông thuộc trong số những người sớm đưa ra những quan điểm chính trị mở đường cho cuộc Cách mạng tại Mỹ.
(2) “Hà chính mãnh ư hỗ giã” (sách lược trị quốc trị hà khắc còn ghê gớm hơn cọp) – Khổng Tử
Nguồn bản gốc: Russell, Greg (2001). "Constitutionalism: America & Beyond", in Melvin Urofsky, ed. The Democracy Papers (Washington, D.C.: US Department of State, 2001), pp. 1-5.