[Nhật Bản duy tân 30 năm] - Văn Hóa Đông Tây (Phần 1)
Về văn hóa tư tưởng, Nhật Bản có chứa cái kết thai lâu đời chẳng phải tầm thường, văn hóa tư tưởng nào họ cũng thâu góp, cảm thụ của người, nhưng rất khéo lựa chọn, khéo dung hòa, khéo lọc hay bỏ dở để cho thích hợp và hữu dụng với mình, thành ra đến lúc văn hóa tư tưởng Thái Tây sang Đông, họ biết đón rước vồ vập lấy liền.
Nhiều người ngó thấy Nhật Bản sinh ra được đứa con duy tân tự cường giống Âu châu như đúc khuôn, tưởng vậy là Nhật Bản nhờ công ơn khí bẩm của Âu châu truyền cho hết thảy.
Mà người ta không tưởng vậy sao được; vì chứng cớ hình tích là những cơ khí, cửa nhà, xe tàu, y phục cho đến chính trị, lý tài, kinh tế, quân sự kia, nhất thiết là của Âu châu sản sinh, vậy thì đứa con Nhật Bản duy tân, chẳng phải con của Âu châu thì còn ai?
Nếu chỉ xét người ở ngoài da, thì vậy đó là phải rồi. Nhưng, chưa chắc mỗi ai có khí bẩm Âu châu truyền cho, cũng duy tân tự cường được, Trung Quốc từ thế kỷ XVIII, đã có nhiều người Tây phương lui tới, đem những cái hay của họ sang cho mà thấy, sao Trung Quốc không văn minh hùng cường đi? Cũng như nước Nam mình đời Gia Long, có những người Pháp tài nghề chuyên môn là Olivier, là Chaigneau, qua đây đóng tàu đúc súng, xây thành luyện quân ở ngay trước con mắt mình, sao mình không giỏi văn minh hùng cường đi?
Tại sao?
Chỉ tại Trung Quốc với mình như chị đàn bà khô khan yếu đuối, trong mình không có những cái tính chất có thể cảm thọ khí bẩm tốt lành của người ta để sinh sản ra tốt lành.
Trái hẳn lại, Nhật Bản từ xưa chẳng những đã chứa sẵn nhiều tính chất phát dục chín chắn tốt lành, mà ngay đứa con văn minh hùng cường cũng đã nằm sẵn trong thai nghén của họ rồi, vừa đúng lúc ngày đầy tháng, thì Âu hóa tới rước nó ra, chớ không phải Âu hóa đem trọn đứa con đẻ sẵn cho Nhật Bản đâu! Khác nào hột giống cây quý tự người Nhật đã gieo nó dưới đất rồi, Âu hóa như trận mưa phải thời, tự nhiên nó nảy mầm đâm nhánh lên vậy.
Một bậc danh nhân trong thời đại Minh Trị, nông học kiêm pháp học bác sĩ là Tân Độ Hộ Đạo Tạo 新渡戸稲造 Nitobe Inazou ví dụ Âu hóa có công như là cô mụ, rất có ý vị:
“Âu hóa đối với nước Nhật chúng tôi không khác gì chuyện cô mụ hộ sinh đối với một đứa nhỏ trong thai, đến ngày đến tháng, cô mụ tới đỡ cho nó chui ra đời. Nếu Âu châu có công với sự tiến hóa duy tân của chúng tôi, tức là cái công của cô mụ hộ sinh đó. Nghĩa là đứa nhỏ cứng cáp tốt lành đã có sẵn trong thai nghén của chúng tôi rồi, chỉ nhờ Âu hóa tới làm người hộ sinh, khiến cho người mẹ sinh ra đứa nhỏ được mau chóng hơn, dễ dàng hơn, và ít quằn quại đau đớn. Bảo rằng đứa nhỏ do chúng tôi sinh ra đó là của Âu châu ban cho hết thảy thì sai lắm. Rút lại mà nói: Nhật Bản có nhờ Âu châu là để cho cái sức có sẵn nơi mình, được mau phấn phát, tấn tới theo thời vậy”.
Câu nói nghe như hơi quá tự phụ, nhưng quả là chứa đầy sự thật.
Về văn hóa tư tưởng, Nhật Bản có chứa cái kết thai lâu đời chẳng phải tầm thường. Nhất là văn hóa tư tưởng nào họ cũng thâu góp, cảm thụ của người, nhưng rất khéo lựa chọn, khéo dung hòa, khéo lọc hay bỏ dở để cho thích hợp và hữu dụng với mình, thành ra đến lúc văn hóa tư tưởng Thái Tây sang Đông, họ biết đón rước vồ vập lấy liền. Trên con đường này, trước khi muốn thấy dấu chân họ ở chặng sau, ta dòm sơ lại bước đi của họ ở mấy chặng trước thử xem.
Sự thật, Nhật Bản đã sẵn có một cái thai văn hóa kết tinh lâu rồi.
Muốn xét cái thai văn hóa của Nhật Bản, đầu hết phải xét từ tôn giáo mà đi.
Thật, quả như lời của ông giáo sư Félicien Challaye đã nói: “Chính là tôn giáo đã vạch rõ ra những tính chất cốt yếu của nền văn hóa ấy, khiến cho nó có vẻ lạ khác người ta, có linh hồn riêng của nó. Nó ảnh hưởng tới tư tưởng, tính tình và công việc của người Nhật làm một cách rất sâu xa; chính tôn giáo đã giúp ý tưởng cho họ nảy ra văn chương, ra mỹ thuật, làm nên khuôn mẫu cho tất cả những điển chương phép tắc tổ truyền; chính tôn giáo đã làm cho rung động và ngày nay cũng vẫn còn rung động sự sống bề ngoài cũng như sự sống bề trong của người Nhật.” (Ce sont les religions qui ont déterminé les caractères essentiels de cette civilisation, lui ont donné son originalité, son âme. Elles ont profondément agi sur les idées, les sentiments et les actes de Japonais; elles ont inspiré leur lictérature et leurs arts, modelé toutes les institutions traditionnelles; elles ont animé et elles animent encore leur vie extérieuse comme leur vie intérieuse).
Từ thuở nước Nhật cổ, có ba nền đạo lớn, vẫn là những đạo cốt yếu của nước Nhật kim ngày nay: Thần đạo, Khổng giáo, Phật giáo.
THẦN ĐẠO
Ở chương thứ nhất, độc giả đã thấy một đoạn nói người Nhật tin tưởng nước họ là Thần quốc, do Thần dựng lên, đức Thiên hoàng là con cháu, dòng dõi của vị Thần tôn nghiêm cao quý hơn hết, đời đời truyền nối trị vì, không ai được xâm phạm, không hề có sự thay đổi bao giờ. Tự nhiên Thần đạo 神道 [Shindou] (shinstoisme) là đạo gốc, có từ lúc Nhật Bản mới thành dân tộc, mới lập quốc gia trở đi.
Đây, cần nói thêm về Thần đạo, nhất là những điều trước kia chưa nói, vì có quan hệ với vấn đề văn hóa.
Ta nên phân biệt: Thần của người Nhật, không phải Thần như của Tàu và nước Nam ta, phàm ai sống khôn thác thiêng, được người ta lập đình miếu thờ tự và có nhà vua sắc phong là Thần thì mới là Thần; cũng không đồng nghĩa với Thánh (Saint) ở đạo Gia-tô, thường là những người xưa kia tận trung với đạo Chúa hay là tử tiết vì đạo, về sau được Tòa thánh ở La Mã phong Thánh thì mới được là Thánh.
Thần đạo ở Nhật Bản cốt nhất là sự tưởng nhớ kính thờ các Gia Di 加彌 [Kami], tức là anh linh của những người qua đời. “Hết thảy những kẻ chết đều thành Thần”, ấy là lời của nhà chí sĩ ái quốc 平田 篤胤 [Hirata Atsutane] (1776-1843), đứng ra xướng minh Thần đạo, gây nên một phong trào vừa có chủ nghĩa tôn giáo quốc gia; vừa có tôn chỉ chính trị ái quốc; chính cái phong trào đó về sau kết cuộc là Mạc phủ phải dâng trả quyền chính của Thiên hoàng và mở ra thời kỳ Minh Trị duy tân vào năm 1868 vậy.
Căn bản của Thần đạo tóm tắt lại ở sự tin tưởng này: anh linh của kẻ chết vẫn quanh quất ở giữa kẻ sống; vẫn đi về lui tới nhà cửa con cháu; tuy ở trong cõi thiêng liêng vô hình mà vẫn kiểm xét tính hạnh đạo đức và dự phần vào những cảnh vinh nhục vui buồn của kẻ đang sống luôn luôn. Vẫn biết rằng cõi Thần cũng như cõi người, có hạng xấu tốt nên hư, nhưng mà hết thảy những kẻ đã chết, đều có quyền sức thiêng liêng tác oai tác phúc cho người sống được. Giữa người sống với kẻ chết vẫn có sợi dây quan hệ liên lạc với nhau.
Kẻ chết cần dùng người sống tưởng nhớ kính thờ để cho vong linh được yên ổn sung sướng trên cõi thiêng liêng. Còn người sống phải nhờ kẻ chết che chở phò trợ cho mình ở đời.
Có nhiều hạng Thần: Thần của gia đình là anh linh của cha mẹ, ông bà, tổ tiên, thờ tự bàn thờ trong nhà; Thần chung của làng xóm, thờ ở đình miếu hương thôn; tới Thần chung cả nước là anh linh của các đấng anh hùng hào kiệt, chí sĩ, danh nhân, mà trên hết là anh linh của tổ tiên đức Thiên hoàng. Cho đến trời, đất, cây, đá, các đồ dùng về nghề nghiệp, mỗi sự vật đều có Thần giám đốc chủ tể nữa.
Cái gốc luân lý ở xã hội Nhật Bản xưa nay cũng thế, là ở gia đình. Ông Lafcadio Hearn làm giáo sư ở Đông Kinh trong lúc Minh Trị duy tân, vô dân Nhật, ở nước Nhật luôn 40 năm, biết rõ người Nhật đến tận móng tay kẻ tóc, muốn chỉ tỏ cái đại cương của gia đình luân lý Nhật Bản bằng câu này đúng lắm: “Gia đình là một tôn giáo, nhà cửa con cháu ở là một đền thờ”. (La famille est une religion, le home (la demeure familiale) un temple).
Xứ mình lâu nay, thấy có nhiều nhà ấy là nói những người không phải theo đạo Thiên Chúa đã dẹp bàn thờ ông bà đi, chớ ở Nhật Bản, nhà nào cũng có, từ nhà các ông tể tướng, nguyên nhung, cho đến nhà của thường dân lao động. Vì đó là một dấu tỏ ra con cháu cung kính tưởng nhớ ông bà tổ tiên, thường thường khấn vái cúng kiến. Họ cho rằng mình đây có thân hình, cửa nhà, có sự nghiệp; hay là bất cứ sự vật gì, đều nhờ ông bà cha mẹ ban cho, nên mình phải luôn tưởng nhớ kính thờ mới được. Huống chi là tổ tiên vẫn dòm thấy công việc ta làm, vẫn nghe mỗi lời ta nói, vẫn thấu lòng dạ ta, vẫn xét đoán ta; nếu ta ở đời mà cư xử hành vi đến can danh phạm nghĩa, để cho anh linh tổ tiên sầu tủi, thật là ta mắc một tội rất lớn.
Trong gia đình, Thần đạo buộc có kỷ luật nghiêm minh: con phải hiếu thảo vâng lời cha mẹ, vợ phải kính nể chồng, em phải nghe lời anh, kẻ dưới phải phục tòng người trên. Luật nghiêm ấy phải có chỗ bù chế lại, là nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau, buộc những kẻ trên phải lo lắng, phải cứu vớt, phải an ủi, phải tư trợ cho sự sống của kẻ dưới được thong thả êm đềm.
Ngoài luân lý gia đình, tới luân lý hương tộc, Thần đạo nghiêm cấm những kẻ cùng ở một làng xóm, cùng chung một họ hàng, không được gây gổ chửi rủa nhau. Lúc có hoạn nạn như trộm cướp cháy nhà thì phải tương cứu. Ai ở trong làng mà phạm tới luân lý hương tộc đại khái của Thần đạo như thế, đều bị người ta khinh khi, ruồng bỏ, đến đỗi muốn lập gia đình không được, rồi phải bỏ làng mà đi phiêu lưu.
Trên gia đình và hương tộc, là quốc gia. Thần đạo dạy người ta suy rộng tấm lòng con hiếu cha từ ra trung quân ái quốc, làm người phải biết trọng danh dự, trọng khí tiết, khinh tài trượng nghĩa, dầu phải vì danh dự vì quốc gia mà chết bỏ mình đi, cũng đừng thèm sợ tiếc. Võ sĩ đạo, độc giả xem trên xa kia đã biết, là đạo gì, chính là một chi nhánh nảy từ luân lý quốc gia của Thần đạo mà ra đó.
Sở dĩ Nhật Bản là một dân tộc chuộng sự thanh khiết nhất đời, cũng là do phận sự của Thần đạo bắt buộc. Họ nói Thần ưa sự thanh khiết, cho nên mỗi người nào kính thờ tưởng nhớ Thần, luôn luôn phải giữ tâm mình và thân mình cho thật trong sạch; không vậy thì Thần không gần gũi mình, không chứng giám phò trợ cho mình. Người Nhật vẫn lấy chỗ tập tục thanh khiết của Thần đạo bắt buộc họ mỗi ngày mỗi giờ mỗi giây mỗi phút như thế là chỗ đặc biệt tự cao; không như tục lệ người Tàu đến khi sắp có cúng tế mới lo trai giới mộc dục (ăn chay, kiêng cữ, tắm gội), bởi vậy là dấu tỏ ra bình thường không thanh khiết. Người Ấn Độ lúc làm lễ Phật phải xông hương; đạo Gia Tô xức dầu thơm trước khi tụng kinh làm lễ, đều là cách mượn vật che thân.
Cái đặc sắc của Thần đạo, là một nền luân lý đạo đức, chớ không có những lễ nghi phiền phức như các đạo khác, mà chỉ cốt có một tấm lòng thành. Họ lấy lòng thành là nòng cốt mực thước của mọi đức hạnh; lấy đó mà thờ Thần, lấy đó mà ăn ở với người, tấm lòng lúc nào cũng như nước trong, như gương sáng.
Tấm lòng thành đó lúc gặp Nho giáo Phật giáo truyền tới, tức thời biết đón rước dung hòa và lựa lọc cái hay của người rồi đẽo gọt lại trở nên cái hay của mình; tới sau có văn hóa Thái Tây tràn sang, họ cũng tỉnh ngộ ngay về chỗ hay dở, về sự cần dùng mà tiếp lấy tức thời, không chần chờ do dự đến đỗi nguy vong như ai.
NHO GIÁO
Nho giáo ở bên Tàu truyền qua nước Nhật, vào khoảng Ứng Thần Thiên hoàng 応神天皇 [Oujin Tennou] năm thứ 16, chiếu theo Tây lịch, nhằm năm 285.
Ban đầu Nho giáo sang Nhật, xã hội Nhật chẳng hề bị xảy ra mảy may nhiễu loạn nào, không như lúc đầu của đạo Phật và đạo Gia Tô mới truyền bá, lòng người ngờ vực, mới cũ ganh nhau, đến đỗi đổ máu.
Tại sao?
Tại đạo Nho dạy những thuyết phần nhiều phù hợp với Thần đạo và tập tính của người Nhật.
Thiệt vậy, Thần đạo dạy người ta phải hiếu kính cha mẹ, thờ tưởng tổ tiên, phải trọng lễ nghĩa đạo đức, phải trung quân ái quốc… thì đạo Nho cũng vậy. Cho nên người Nhật đón rước đạo Nho một cách vui vẻ êm ái, để tô điểm thêm vẻ tốt đẹp cho nền văn hóa của họ.
Nguyên là đời Ứng Thần Thiên hoàng, có mấy vị sứ thần của nước Bách Tế (tức Cao Ly bây giờ) qua Nhật Bản, đem theo Ngũ kinh Tứ thư dạy cho người Nhật, đạo Nho truyền qua từ đó. Lần hồi nhà vua mở trường đại học ở kinh sư, và truyền lệnh mỗi nước chư hầu lập một quốc học, đặt ra những chức bác sĩ, trợ giáo để dạy Nho học cho dân. Nhờ vậy mà sức truyền bá của đạo Nho càng ngày càng thịnh.
Có một lúc Nho học ở Nhật đã suy vi, nhưng đến đầu thế kỷ XIII (theo Tây lịch) nhờ có mấy ông thầy chùa đem học thuyết Tống Nho truyền qua Nhật, bấy giờ Nho học ở Nhật lại bắt đầu phấn chấn. Nhờ họ Đức Xuyên lên làm tướng quân, thống nhất trong nước, là người trọng Nho, thành ra văn học và Nho giáo trở nên có thế lực.
Ở bên Tàu, khoảng giữa đời nhà Tùy, nhà Đường, Phật giáo thịnh hành quá, gần muốn làm tiêu Nho giáo. Sau nhờ Tống nho cứu vớt lại. Trong Tống Nho, lãnh tụ là Chu Tử (1130-1200), khéo lấy tinh thần của Phật giáo mà thay lông đổi cốt, xướng lên những thuyết lý khí tâm tính, khiến cho Nho giáo sắp nguy lại quật lên có thế lực. Thuở Hán Đường, nhà nho hay câu nệ với những câu nói của thánh nhân, thành ra Nho học thiếu mất khí sống; đến nhà nho đời Tống không vậy, cốt lấy tinh thần mà giải thích đạo Nho, nói rằng tấc lòng của thánh nhân mình không cần phải dò kiếm ở mấy ngàn năm trước làm gì; trái lại, chỉ nên dò kiếm ở ngay trong tim, trong óc mình là thấy. Nhờ Tống Nho phát minh cái thuyết tính lý như thế mà Nho giáo lại có hoạt khí, và Nhật Bản hoan nghênh Tống học là hoan nghênh thứ Tống học đó.
Học phái Chu Tử đẻ ra ở Nhật Bản có nhiều tay đại nho, có công to với nền giáo dục trong nước.
Song cũng có phái Cổ học nổi lên, chê Tống học xen lộn thuyết Phật vô, làm sái mất cái chân nghĩa của Khổng Tử đi, cho nên họ muốn tìm suốt đến nguồn Khổng giáo, để giữ hệ thống chính quyền. Phái này cũng nảy ra lắm bậc danh nho bác học.
Rồi có học phái Chiết trung, nghĩa là ở giữa hai phái trên đây.
Đến lúc bên Tàu có Vương Dương Minh 王陽明 [Ouyoumei] (1472-1528) xướng lên thuyết lương tri 良知 [Ryouchi], chính người Tàu không biết quý chuộng hoan nghênh, mà nhà nho ở Nhật lại đón rước một cách vui mừng nô nức. Đại khái học thuyết Dương Minh lấy lương tri làm gốc, hễ lương tri (tức là lương tâm) của con người ta tìm tòi suy xét một việc gì mà biết nó là hay, là phải, thì cứ việc mạnh bạo thực hành, không ngần ngại gì cả. Chính là một học thuyết chuộng sự thực hành, đào luyện cho người ta giàu về tinh thần thực hành vậy.
Người hoan nghênh học thuyết Dương Minh đầu hết ở Nhật Bản là Trung Giang Đằng Thụ 中江藤樹 [Nakae Touju] một bậc cự phách trong Chu Tử học phái. Đến lúc tuổi già ông ta mới biết học thuyết Dương Minh là hay, tức thời bỏ học thuyết Chu Tử rồi ở Cận Giang 近江 [Oumi] dạy học trò, hết sức xướng lên thuyết Lương tri, nói rằng con người ta chỉ học suông thì vô vị lắm, học phải lo chính mình thực hành mới là có ích, vậy thì chỉ duy có cái đức lương tri là có thể biết rõ năng tính của mỗi người và có thể thấy rõ sự thực tại của cõi đời.
Đằng Thụ nổi tiếng là Cận Giang thánh nhân 近江聖人 [Oumi Seijin], lôi kéo được số khá đông sĩ phu biết bỏ Chu học là cái học chỉ chuộng lý tưởng mà quay về Dương Minh học là cái học ganh đua thực hành.
Lúc Nhật Bản rục rịch khai quốc duy tân, đám chí sĩ trong nước xôn xao hoạt động, muốn mưu ích lợi cho quốc gia mà rủ nhau ra sức hô hào mở mang văn minh mới, trong đó nhà nho chiếm số rất nhiều. Nhà nho hào kiệt có tiếng lớn công to với cuộc duy tân, như Hoành Tỉnh Tiểu Nam 横井小楠 [Yokoi Shonan] (1809-1869), Tá Cửu Gian Tượng Sơn 佐久間像山 [Sakuma Shouzan] (1811-1864), Cát Điền Tùng Âm, Tây Hương Long Thịnh… đều là người của phái Dương Minh. Phái này tuy có số ít, nhưng đẻ ra được anh hùng hào kiệt nhiều hơn. Trong khi phái nho Chu học bo bo cố chấp và xướng lên những thuyết “tỏa quốc nhương di” (khóa các cửa biển lại, chống cự người Tây phương ra vô) thì phái nho Dương Minh biết sự mở cửa đón Tây, duy tân tự cường là sự cần dùng cấp bách. Vậy cho biết cùng là Nho giáo mà biết lựa chọn học thuyết hay dở, nó quan hệ đến cuộc mất còn suy thịnh của một quốc gia dân tộc lắm thay! Thiệt, dân tộc Nhật Bản biết đón rước văn hóa học thuật phương Tây, không phải không nhờ có chỗ dưỡng dục sẵn sàng từ trước; chỗ đó Nho giáo chiếm một phần rất lớn, nhất là Nho giáo theo thuyết Dương minh.
Ta lại nên nhìn biết trong khoảng một ngàn mấy trăm năm, Nhật theo Nho giáo, là chỉ ham chuộng nghiên cứu những cái tinh ba triết lý của Khổng Tử, chớ không rước lấy những cặn bã là hư văn khoa cử của bọn nho Đường Tống bày ra. Đã vậy mà họ lại biết nhân Hán tự để chế tạo ra một thứ văn tự riêng của mình, không chịu làm nô lệ Nho học Hán văn một cách tuyệt đối như các đệ tử khác. Đó là hai cái đặc sắc học Nho của họ, mà chính hai cái đặc sắc ấy dự phần công lao rất lớn vô cuộc duy tân vậy.
Đến đời duy tân trở đi, Nho giáo bị học thuật Tây phương lật đổ, làm cho tiêu mòn, nhưng đó chẳng qua chỉ là hình thể Nho giáo mất đi mà thôi, chớ tinh thần Nho giáo thì người Nhật họ còn giữ mãi trong tâm não và sự giáo dục của họ, lấy cái tinh thần ấy để bù chế vào chỗ thái quá của văn minh vật chất Tây phương. Vả lại, Nho giáo là một dấu tích văn minh cổ thời của Đông phương, và chính Nhật Bản có chịu ảnh hưởng sâu xa, thành ra không khi nào họ bỏ tinh thần Nho giáo. Ta xem trong chương trình đại học của Nhật Bản, vẫn có một khoa Nho học Hán văn, và trong xã hội vẫn có những tay học vấn chuyên môn nghiên cứu và tuyên truyền những triết lý của Khổng Tử; mỗi năm ở văn miếu thờ Khổng Tử vẫn giữ lễ tế tự long trọng như thường. Họ ra sức chủ trương và dẫn nhiều chứng cớ bày tỏ ra rằng Nho giáo có lắm chỗ đi đôi với khoa học đời nay, mà không chống chọi nhau gì hết.
PHẬT GIÁO
Phật giáo truyền sang Nhật Bản vào khoảng thế kỷ VI Tây lịch, tự Cao Ly truyền của Trung Quốc rồi đem qua Nhật.
Các tôn giáo khởi lên ở Ấn Độ, đại khái đều gốc ở quan niệm quốc gia và nhân dân; duy có Phật giáo là một tôn giáo rộng cả thế giới, tự phát lên một vẻ mới lạ tốt đẹp, thành ra nó dễ tràn lan truyền bá ra đến nửa phần thiên hạ.
Phật giáo truyền bá ra hai ngả khác nhau. Một là phái Tiểu thừa 小乗 [Shoujou] hay Hīnayāna, người ta cũng gọi là Nam tông 南宗 [Nanshuu], thịnh hành ở các xứ Tích Lan và Miến Điện. Một là phái Đại thừa 大乗 [Daijou] hay Mahāyāna, người ta cũng gọi là Bắc tông 北宗 [Hokushuu], thịnh hành ở nước Tàu và Trung bộ châu Á. Đại khái hai phái hơi khác nhau về chỗ tin tưởng niết bàn (nirvãna); Nam tông chủ trương rằng người ta có thể tới niết bàn do nơi công phu tu luyện và ý chí tự do của mình; nhưng Bắc tông chủ trương phải nhờ có sức thiêng liêng cứu độ giải thoát nhiều hơn là nhờ ý chí tự do.
Chính Phật giáo Đại thừa đó Cao Ly đem sang Nhật Bản hồi thế kỷ VI. Lúc mới truyền qua, Phật giáo bị Thần đạo chống chọi công kích dữ lắm. Nhưng sau những nhà thâu truyền Phật giáo khéo thay đổi một chút cho thích hợp và không động chạm tới lòng tín ngưỡng Thần đạo của người Nhật, bấy giờ Phật giáo mới thịnh hành truyền bá ở dân gian Nhật Bản.
Nhất là từ thế kỷ thứ IX trở đi, Phật giáo có ảnh hưởng sâu xa đến văn hóa Nhật Bản đủ các phương diện. Tư tưởng triết lý, chính trị, giáo dục, mỹ thuật, công nghệ, kiến trúc, công cuộc xã hội từ thiện… nhờ sức cảm hóa và sức thâu thập của Phật giáo mà mở mang tấn tới lạ thường.
Cho đến văn học thi ca cũng vậy. Thứ chữ riêng của Nhật Bản gọi là Phiến giả 仮名 [Kana], gồm có 50 âm, lấy gốc ở văn pháp của chữ Phạn; còn chữ mới là Bình giả 平仮 [Hiragana], sự sắp đặt có ngụ giáo lý của Phật giáo mà làm thành ra ca dao, tục ngữ, kịch bản, thi văn. Tóm lại, gọi là tinh túy của cổ văn học Nhật Bản đều nhờ đạo Phật cảm hóa mà ra.
Từ thế kỷ IX cho tới trước ngày duy tân 1868, Phật giáo rất có thế lực, hầu như quốc giáo của Nhật Bản; rồi sau đó Phật giáo mới tách riêng quốc gia và trở nên một Tôn giáo tự do quan hệ nhất ở xã hội Nhật Bản đến nay.
Phật giáo ngay từ khi mới vô nước Nhật trở đi, đã chia ra nhiều tôn phái, nhưng tôn phái nào cũng đóng góp vô cuộc xây dựng văn hóa tốt đẹp rất nhiều, và không nhiễm phải những cái lưu độc của bọn háo sự bày đặt ra như các nơi khác. Cũng như đón rước Nho giáo, người Nhật đón rước Phật giáo cũng chỉ cầu lấy cái chân tinh thần làm gốc, chính cái chân tinh thần đó phát huy ra văn hóa rực rỡ cho họ. Văn học bác sĩ Cao Nam Thuận Thứ Lang 高楠順次郎 [Takakusu Junjirou] đã nói không sai:
“Phật giáo qua Nhật không bao lâu mà phổ biến cả trên dưới, ai nấy đều hâm mộ quy hướng. Chẳng những Phật giáo cảm hóa đạo đức người Nhật mà thôi, lại có vang bóng rất sâu xa tới mọi việc chính trị, giáo dục, văn học, công nghệ, mỹ thuật. Tóm lại, nền văn hóa xưa của nước Nhật, do Phật giáo vun đắp mở mang cho phần nhiều.
Có một điều nên nói cho rõ, Phật giáo ở các nước trên đại lục kia, người ta đều quên sót cái tinh thần khởi nguyên của nó, chỉ vồ vập lấy những nọc đọc mối tệ là nhiều. Duy có Nhật Bản có cái tính riêng, đối với văn vật xứ ngoài truyền vào, biết lựa chọn tinh hoa, thảy bỏ cặn bã, rồi nhồi nắn lại, cho vừa hợp với quốc tình của mình. Thì tinh thần của Phật, gặp được sự lựa chọn nhồi nắn đó, mà nảy được chân tướng ra. Cho nên Phật giáo của Nhật không phải là Phật giáo của Ấn độ, cũng không như Phật giáo của các nước Trung Quốc, Miến điện, Xiêm La, Việt Nam. Các xứ này đều trúng độc, duy có Nhật là giữ được tinh thần khởi nguyên của Phật mà thôi”.
Nguồn: Đào Trinh Nhất (2012[1937]). Nhật Bản duy tân 30 năm. NXB Lao Động-Xã Hội.