Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 6)

Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 6)

Khi mọi thứ đã được nói ra ủng hộ việc quy trách nhiệm về tính cách và hành động cho những nguyên nhân tự nhiên hay thuộc tổ chức rộng lớn; khi mọi thứ có thể làm đã được thực hiện để sửa chữa tình trạng mù quáng hay diễn giải quá giản lược trong cách cư xử, xác định quá nhiều trách nhiệm cho các cá nhân và các hành động tự do của họ; khi quả thực có bằng chứng mạnh mẽ chứng tỏ rằng thật khó khăn hay không thể để cho con người làm khác đi những gì họ đã làm, với điều kiện đã cho của môi trường vật chất hay nền giáo dục của họ, hay ảnh hưởng tác động lên họ của những “áp lực xã hội” khác nhau; khi mọi xem xét thích hợp về tâm lí học và xã hội học đã được tính đến, mỗi yếu tố khách quan đã góp trọng lượng thích đáng; sau khi “bọn bá quyền”, bọn dân tộc chủ nghĩa, và các bọn dị giáo khác trong lịch sử đã bị vạch trần và bị bẻ gãy; sau khi mọi nỗ lực đã được thực hiện để kích thích khao khát lịch sử, trong mức độ nó có thể không còn chứa đựng điều phi lí nữa, sau khi điều kiện thuần khiết phi đánh giá (wertfrei) của khoa học [được thiết lập]; sau tất cả những đòi hỏi khắc nghiệt ấy, chúng ta vẫn tiếp tục ca ngợi và chê trách. Chúng ta chê trách những người khác cũng như chê trách chính bản thân chúng ta; và chúng ta càng biết nhiều thì hình như chúng ta lại càng có khuynh hướng chê trách. Chắc chắn chúng ta sẽ bị ngạc nhiên nếu được nói cho biết rằng chúng ta càng hiểu được tốt hơn những hành động của chính chúng ta - động cơ của chính chúng ta và những hoàn cảnh xung quanh - thì chúng ta tất sẽ cảm thấy được giải thoát nhiều hơn khỏi việc tự trách móc bản thân. Chắc chắn điều ngược lại mới thường là đúng. Chúng ta càng xem xét sâu sắc hơn vào cách cư xử của bản thân chúng ta, thì lại càng thấy hành vi của chúng ta là đáng trách hơn đối với chúng ta, chúng ta có thể lại càng có khuynh hướng cảm thấy ân hận; và nếu như điều này được duy trì cho bản thân chúng ta, thì thật không hợp lí nếu kì vọng chúng ta nhất thiết sẽ chấm dứt điều này đối với những người khác trong mọi trường hợp. Những tình huống của chúng ta có thể khác biệt với những tình huống của họ, nhưng không phải lúc nào cũng thật khác biệt quá nhiều đến nỗi tất cả mọi so sánh đều không công bằng. Bản thân chúng ta có thể cũng bị kết tội không đúng, và chúng ta càng hết sức mẫn cảm với những nguy cơ chê trách không đúng những người khác. Thế nhưng vì chê trách có thể không đúng và cám dỗ phát biểu chê trách lại quá mạnh, không suy ra rằng chê trách không khi nào là đúng; và vì rằng những phán xét có thể dựa trên sự ngu dốt, có thể nảy sinh từ những ý niệm bạo lực, hay tai ác, hay ngờ nghệch, hay nông cạn, hay bất công, từ đó không suy ra rằng những phẩm tính đối lập lại những phẩm tính đó tuyệt nhiên không tồn tại; không suy ra rằng chúng ta bị bắt buộc một cách huyền bí phải chịu một mức độ tương đối luận và chủ quan luận trong môn lịch sử, và chúng ta được giải thoát khỏi điều này theo cách thức cũng không kém phần huyền bí, hay dù sao cũng được giải thoát nhiều hơn, trong suy nghĩ bình thường hằng ngày và trong các giao dịch với nhau.

Quả thực, lí luận sai lầm chủ yếu của lập trường này thật quá hiển nhiên, chẳng cần phải chỉ ra. Chúng ta được nói rằng chúng ta là những sinh linh của tự nhiên, hay của môi trường, hay của lịch sử, và rằng đieu đó tác động đến tính khí của chúng ta, những phán xét của chúng ta, những nguyên tắc của chúng ta. Mỗi phán xét đều là tương đối, mỗi đánh giá đều là chủ quan, thứ gì được tạo nên và là như thế do bởi tương tác qua lại của những yếu tố vào thời gian và địa điểm của nó, mang tính cá nhân hay tập thể. Thế nhưng tương đối với cái gì kia chứ? Chủ quan trong tương phản với cái gì nhỉ? Được tạo nên như nó làm, nhằm thích nghi với một khuôn mẫu phù du nào đó, như đối lập với tính độc lập muôn thuở khả dĩ quan niệm được nào kia chứ? Những thuật ngữ tương đối (đặc biệt trong nghĩa xấu) cần có những thứ tương liên, nếu không thì chúng hóa ra tự bản thân không có nghĩa, chỉ đơn thuần là lời nhạo báng, là những câu nói có tính tuyên truyền, được thiết kế nhằm gây tai tiếng, chứ không nhằm miêu tả hay phân tích. Chúng ta biết chúng ta hàm ý gì khi chê bai một phán xét hay một phương pháp như là chủ quan hay thiên vị - chúng ta hàm ý rằng những phương pháp thích đáng cân nhắc bằng chứng đã bị bỏ qua quá nhiều; hoặc là những thứ bình thường vẫn được gọi là sự kiện đã không được tính đến, bị dập đi hay bị xuyên tạc; hoặc là bằng chứng bình thường vẫn được chấp nhận là đủ để được xem như là những hành động của một cá nhân hay xã hội, lại bị bỏ qua không có lí do chính đáng trong một trường hợp nào đó khác vốn tương đồng về mọi mặt liên quan; hoặc là những chuẩn tắc diễn giải bị tùy tiện biến cải từ trường hợp này qua trường hợp kia, tức là không nhất quán hay có nguyên tắc; hoặc là chúng ta có lí do để cho rằng nhà sử học trong vấn đề [đang xem xét], đã muốn thiết lập những kết luận nào đó vì những lí do khác với những lí do cấu thành bằng chứng, phù hợp với những chuẩn tắc về suy diễn có giá trị, được chấp nhận là bình thường vào thời của ông ta hay thời bây giờ, và rằng điều đó đã che mắt ông ta trước tiêu chí và phương pháp bình thường trong lĩnh vực của ông ta nhằm kiểm chứng các sự kiện và chứng minh các kết luận; hoặc tất cả, hoặc một thứ bất kì trong những thứ đó, hoặc những xem xét tương tự với những thứ đó. Ấy là những kiểu cách trong đó tính nông cạn được phân biệt trên thực tế với tính sâu sắc, tính thiên vị với tính khách quan, thói xuyên tạc các sự kiện với tính trung thực, ngớ ngẩn với sáng suốt, giận dữ và lầm lẫn với vô tư và minh mẫn. Nếu chúng ta nắm vững được những quy tắc ấy thật đúng đắn, chúng ta sẽ được biện minh đầy đủ trong việc lên án những vi phạm vào những quy tắc ấy đối với bất kì ai; tại sao chúng ta lại không được làm thế nhỉ? 

Tuy nhiên, vẫn có thể phản bác lại rằng những từ ngữ chúng ta dùng một cách thoải mái ở trên - “giá trị”, “bình thường”, “thích đáng”, “gắn với vấn đề”, “xuyên tạc”, “dập đi những sự kiện”, “diễn giải” - những từ ngữ ấy thực ra có nghĩa gì? Liệu ngữ nghĩa và cách sử dụng những thuật ngữ cốt yếu ấy có thật cố định hay thật sáng tỏ hay không? Phải chăng có thể một thứ được cho là thích hợp hay thật thuyết phục ở một thế hệ này lại được xem là không thích hợp ở một thế hệ khác?

Những gì là các sự kiện không còn nghi vấn đối với một nhà sử học, lại có thể, rất khá thường xuyên, chỉ đơn thuần là một mảnh khả nghi của việc lí thuyết hóa đối với một nhà sử học khác. Chuyện này quả thực là vậy. Những quy tắc cân nhắc bằng chứng quả có biến đổi. Những dữ liệu được chấp nhận ở một thời đại đối với những hậu duệ xa xôi của nó lại có vẻ như tràn đầy những tiền giả định siêu hình rất kì cục, thật khó mà hiểu nổi. Chúng ta sẽ lại được nói rằng tất cả tính khách quan đều là chủ quan, đều là những gì mang tính tương đối với thời khắc và địa điểm riêng của chúng; mọi tính xác thực, mọi sự thấu hiểu và tài năng bẩm sinh của một thời kì phong phú về trí tuệ vốn dĩ như vậy, chỉ là tương đối với ‘bầu không khí của ý kiến” đặc thù của chúng thôi; chẳng có gì là vĩnh cửu, mọi thứ đều trôi đi.

Tuy những điều đại loại như thế vẫn thường xuyên được nói ra và cũng có thể có vẻ khả tín, nhưng trong ngữ cảnh này nó vẫn chỉ đơn thuần là thuật hùng biện. Chúng ta quả là có phân biệt các sự kiện, không phải từ những đánh giá thật sự sắc nét đi vào chính kết cấu của chúng, mà từ những diễn giải về chúng; đường ranh giới có thể không được rõ ràng, thế nhưng nếu tôi nói rằng Stalin đã chết và Tướng Franco vẫn còn sống, điều phát biểu của tôi có thể chính xác hay sai lầm, nhưng không một ai trong lúc sáng suốt lại có thể dựa vào lời đã nói để cho rằng tôi đã đề xuất một lí thuyết hay một diễn giải. Nhưng nếu tôi nói rằng Stalin đã tiêu diệt một số lớn nông dân chủ sở hữu bởi vì lúc còn ấu thơ ông ta bị quấn tã bởi bà vú nuôi, và điều này khiến ông ta trở thành hung hăng, trong khi đó Tướng Franco lại không như thế vì ông ta không phải trải qua trải nghiệm loại này, thì chằng một ai, ngoại trừ một gã sinh viên hết sức ngây thơ thuộc các ngành khoa học xã hội, lại cho rằng tôi đang phát biểu khẳng định một sự kiện, bất chấp việc biết bao nhiêu lần tôi đã bắt đầu bằng lời lẽ “đây là một sự thật, ấy là…”. Tôi sẽ không dễ dàng tin anh, nếu anh bảo tôi rằng đối với Thucydides (hay thậm chí theo một học giả của nền văn minh cổ nào đó) thì chẳng có phân biệt căn bản nào tồn tại giữa nhũng sự kiện “chắc chắn” và những diễn giải còn tương đối “gây tranh cãi”. Chắc chắn là đường ranh giới đã luôn khá rộng và mập mờ; có thể là một ranh giới đang dịch chuyển; nó bị tác động bởi mức độ khái quát các giả định liên quan; thế nhưng trừ phi chúng ta biết được đường ranh giới ấy nằm ở đâu, trong những giới hạn nhất định, thì chúng ta sẽ không sao hiểu được hoàn toàn ngôn ngữ miêu tả. Những mẫu hình tư duy của những nền văn hóa xa cách với thời nay là có thể lĩnh hội được đối với chúng ta chỉ trong mức độ chúng ta chia sẻ được một số mẫu hình, ít nhất cũng là những phạm trù cơ bản; và sự phân biệt giữa sự kiện và lí thuyết nằm trong số đó. Tôi có thể tranh cãi liệu một nhà sử học nào đó là sâu sắc hay nông cạn, có khách quan trong những phán xét của ông ta, hay là chúng dựa trên những giả thuyết đầy ám ảnh hay cảm xúc quá mạnh: nhưng những gì tôi hàm ý bằng các thuật ngữ tương phản ấy sẽ không hoàn toàn khác biệt với những người không đồng ý với tôi vì hẳn là không có luận cứ nào khác nữa; và cũng sẽ không có luận cứ nào khác, nếu tôi có thể tự cho là giải mã đúng được chút nào những văn bản, khác biệt quá nhiều trong những nền văn hóa khác nhau, và thời đại khác nhau và địa điểm khác nhau, đến mức khiến cho mọi giao lưu đều là lừa bịp và hư ảo một cách hệ thống. “Khách quan”, “xác thực”, “công bằng” là những từ ngữ có nội hàm rộng, được sử dụng trong nhiều trường hợp, ranh giới của chúng thường bị mờ. Những nhập nhằng và lẫn lộn luôn luôn khả dĩ và thường nguy hiểm. Mặc dù vậy những thuật ngữ ấy có ý nghĩa, quả thực có thể uyển chuyển, nhưng vẫn ở trong giới hạn được thừa nhận bởi sử dụng thông thường, và căn cứ theo những chuẩn mực được thừa nhận chung bởỉ những người làm việc trong những lĩnh vực gắn với vấn đề; và không đơn thuần chỉ trong phạm vi một thế hệ hay một xã hội, mà xuyên qua những co dãn của thời gian và không gian. Lời khẳng định đơn thuần cho rằng những thuật ngữ cốt yếu ấy, những khái niệm hay phạm trù hay chuẩn mực, đều thay đổi trong ý nghĩa hay trong áp dụng, ấy là giả định rằng những thay đổi đó ở mức độ nhất định có thể được truy nguyên bằng những phương pháp mà tự chúng trong mức độ có thể (pro tanto), không chịu trách nhiệm về thay đổi khả dĩ truy nguyên được ấy; vì rằng nếu phương pháp ấy về phần mình lại cũng thay đổi, thì theo giả thuyết (ex hypothesi) chúng làm như vậy theo cách thức khiến chúng ta khó phát hiện được107. Và nếu không thể phát hiện được thì không thể kiểm kê được, và do đó không thể dùng làm cái gậy đánh chúng ta vì tội chủ quan hay tương đối, vì những ảo giác tự đại và vĩnh hằng, ảo tưởng về tính tuyệt đối nơi các chuẩn mực của chúng ta trong một thế giới đổi thay không ngừng.

Những cáo buộc ấy giống như những gợi ý, đôi khi cấp tiến một cách ngẫu nhiên, nói rằng cuộc đời là một giấc mộng. Chúng ta phản đối lại rằng “mọi thứ” không thể là một giấc mộng, vì khi ấy thì chẳng có gí để tương phản với giấc mộng cả, ý niệm về một “giấc mộng” mất đi sự ám chỉ đặc thù của nó. Người ta có thể nói rằng chúng ta sẽ có sự thức ngộ: tức là một trải nghiệm mà trong tương quan với nó, hồi ức về những cuộc sống hiện tại của chúng ta sẽ là thứ gì đó như những giấc mộng được nhớ lại, nay hiện hữu khi so sánh với trải nghiệm bình thường lúc thức tình ở hiện tại. Điều này có thể là đúng; nhưng, như sự vật vốn là thế, chúng ta có thể chẳng có được bao nhiêu, hay chẳng có gì là bằng chứng khẳng định hay bác bỏ giả thuyết ấy. Chúng ta được đề nghị một sự tương đồng mà một điều kiện của nó bị giấu kín; và nếu chúng ta được mời gọi dựa vào sức mạnh của nó để kiểm kê hiện thực của cuộc sống bình thường lúc tình thức, dưới dạng một hình thức khác của trải nghiệm không thể miêu tả được theo nghĩa đen, và không thể phát biểu ra dưới dạng thức trải nghiệm hằng ngày và ngôn ngữ bình thường của chúng ta - một trải nghiệm mà về nguyên tắc chúng ta lại chẳng có được một ý niệm mơ hồ nào về tiêu chí phân biệt giữa những hiện thực và những giấc mộng - chúng ta có thể trả lời thật hợp lí rằng chúng ta không hiểu người ta đề nghị mình làm điều gì; rằng đề nghị hoàn toàn vô nghĩa theo nghĩa đen. Quả thực chúng ta có thể đề xuất lời nói nhàm chán cũ lã, nhưng cũng khá hợp lí, rằng người ta không thể cùng lúc gieo nghi ngờ lên mọi thứ, vì khi ấy chẳng có cái gì khả nghi hơn cái gì đó khác, cho nên chẳng có chuẩn mực nào để so sánh và chẳng có gì được thay đổi. Vậy nên cũng vì lí do này chúng ta có thể bác bỏ như điều rỗng tuếch những cảnh báo chung nài ép chúng ta nhớ rằng mọi chuẩn tắc và tiêu chí, căn cứ trên sự kiện, logic, đạo đức, chính trị, thẩm mĩ đều đã bị “nhiễm trùng” bởi quy định lịch sử hay xã hội hay loại nào đó khác; rằng tất cả mọi thứ chỉ là tạm thời, chẳng có gì là bền vững và đáng tin cậy; vì thời gian và sự may rủi sẽ cuốn chúng đi mất. Thế nhưng nếu tất cả các phán xét đều “nhiễm trùng”, thì chẳng có gì để chúng ta dựa vào mà phân biệt mức độ khác nhau của “nhiễm trùng”, và nếu mọi thứ đều tương đối, chủ quan, tình cờ, thiên vị, thì chẳng có gì có thể được phán xét nhiều hơn so với bất cứ thứ gì khác. Nếu những từ ngữ như “chủ quan” và “tương đối”, “có thành kiến” và “thiên vị”, đều không phải là những thuật ngữ so sánh và tương phản - nếu chúng không hàm ý khả năng có những thứ đối lập với bản thân chúng, “khách quan” (hay ít nhất cũng “ít chủ quan”) hay “không thiên vị” (hay ít nhất cũng “ít thiên vị”) - nếu thế thì chúng có thể có nghĩa gì đối với chúng ta? Sử dụng chúng nhằm ám chỉ đến mọi thứ bất kể thứ gì, sử dụng chúng như những thuật ngữ tuyệt đối và không như có tính tương liên, ấy là lời xuyên tạc khoa trương ý nghĩa bình thường của chúng, một kiểu hãy nhớ đến cái chết (memento mori) phổ quát, một sự cầu khẩn tất cả chúng ta hãy nhớ rõ chúng ta thật yếu ớt, ngu dốt và tầm thường thế nào, một châm ngôn nghiêm khắc và đức hạnh, một học thuyết có thể đáng khen, nhưng không nghiêm chỉnh, đề cập đến vấn đề quy trách nhiệm trong lịch sử, thích hợp cho bất kì nhóm thầy dạy đạo đức, nhóm chính khách hay nhóm người đặc biệt nào.

Ở đoạn này có thể là hữu ích để nhắc lại một lần nữa những nguyên do đã kích động các nhà tư tưởng đáng kính trọng đi tới những quan điểm như thế. Nếu đi tới phẫn nộ vì sự thô thiển và thiếu cân nhắc của những trường phái lịch sử mang tính “ý thức hệ” vốn bỏ qua tất cả những gì chúng ta biết được về con người, tô vẽ những cá nhân hay những giai cấp hay những xã hội như các vị anh hùng hay những tên côn đồ, trắng tinh hay đen ngòm, những người khác, những nhà sử học hay triết gia lịch sử mẫn cảm và trung thực hơn, phản đối chống lại điều này và cảnh báo chúng ta về những nguy cơ của việc răn dạy đạo đức, của việc áp dụng những chuẩn mực giáo điều, thì chúng ta hoan nghênh, chúng ta kí tên vào phản đối, nhưng chúng ta vẫn phải cảnh giác để khỏi phản đối quá mức, lấy cớ uốn nắn thì phải làm quá đi mà sử dụng những phương tiện vốn làm phát triển thêm những bệnh tật lại cứ tưởng là thuốc chữa. Chê trách bao giờ cũng là thất bại trong thấu hiểu, những người biện hộ cho khoan dung nói thế; nói về trách nhiệm của con người, tội lỗi, phạm tội, độc ác, chỉ là một cách né tránh nỗ lực, né tránh công việc dài lâu, đầy kiên nhẫn, tế nhị hay tẻ nhạt, né tránh việc tháo gỡ cuốn chi rối của sự nghiệp con người. Chúng ta sẽ được nói cho biết rằng, luôn để ngỏ cho chúng ta cơ hội, bằng một kì công của thiện cảm giàu tưởng tượng, đặt mình vào những hoàn cảnh của một cá nhân hay xã hội; chỉ cần chúng ta chịu khó “tái dựng lại” những điều kiện, “bầu không khí” trí tuệ và xã hội và tôn giáo, của thời đại khác hay địa điểm khác, bằng cách đó chúng ta sẽ thấu hiểu được, hay ít nhất cũng nhìn thấy được, những động cơ và thái độ mà dưới dạng thức của chúng thì hành động chúng ta đang phán xét sẽ có thể không còn có vẻ vô duyên cớ, ngớ ngẩn, độc ác hay trên hết là không thể hiểu nổi nữa.

Đó là những cảm xúc đích thực. Từ đó suy ra rằng, nếu chúng ta phán xét công bằng, thì chúng ta phải có đầy đủ bằng chứng, có đủ trí tưởng tượng, có đủ cảm nhận về chuyện các tổ chức rộng lớn phát triển như thế nào, con người hành động và suy nghĩ ra sao, đặng có thể đạt được hiểu biết về những thời đại và những địa điểm và những tính cách và những tình trạng khó xử rất không giống với chúng ta; không để bản thân chúng ta bị che mắt bởi thành kiến và sự giận dữ; hết sức nỗ lực tạo dựng những hiện trạng của những người mà chúng ta lên án - những hiện trạng tốt hơn là họ đã tạo ra hay có thể tạo ra cho mình, như Acton đã nói; không nhìn vào quá khứ đơn thuần qua con mắt của kẻ chiến thắng; không thiên vị quá xa về phía những người bị đánh bại, cứ tựa như chân lí và lẽ phải là độc quyền của những người tuẫn đạo và các nhóm thiểu số; và cố giữ công bằng ngay cả trước những binh đoàn lớn.

Tất cả những điều này không thể phủ nhận: đó là đúng đắn, chính đáng, thích hợp, nhưng có lẽ khó mà gây kinh ngạc. Và chúng ta có thể bổ sung thêm như một hệ luận: thời đại khác, chuẩn mực khác; chẳng có gì là tuyệt đối hay bất biến; thời đại và sự may rủi biến đổi mọi thứ; và cả điều đó nữa hẳn cũng là một tập hợp những chân lí muôn thuở. Chắc chắn không cần thiết phải bi kịch hóa những chân lí đơn giản ấy, cho đến nay vốn đã rất quen thuộc, để nhớ rằng những mục đích, những cứu cánh tối hậu của cuộc đời mà con người mưu cầu là có nhiều thứ, ngay cả trong phạm vi một nền văn hóa và một thế hệ; rằng một số những điều đó xung đột với nhau và dẫn đến những đụng độ giữa các xã hội, các phe phái, các cá nhân, nhất là trong bản thân những cá nhân; tiếp nữa, rằng những cứu cánh của một thời đại và một đất nước rất khác biệt với những cứu cánh ở các thời đại khác và của những nhân sinh quan khác. Và nếu như chúng ta hiểu được những xung đột giữa những cứu cánh đều tối hậu và thiêng liêng như nhau, nhưng không thể hòa giải được ngay cả trong lòng của một con người riêng lẻ, hay giữa những ngưòi hay các nhóm người khác nhau, có thể dẫn đến những xung đột bi thảm và không tránh khỏi như thế nào, thì chúng ta sẽ không xuyên tạc những sự kiện đạo đức bằng cách sắp xếp chúng một cách giả tạo dưới dạng thức của một tiêu chí tuyệt đối nào đó; thừa nhận rằng (xin mạn phép các ông thầy đạo đức thế kỉ 18) không phải tất cả những thứ tốt đẹp đều nhất thiết tương thích với nhau, chúng ta sẽ không tìm kiếm việc thâu gộp những ý tưởng đang biến đổi của các nền văn hóa, các dân tộc, các giai cấp và các con người mà không xem xét xem cái gì là đúng cái gì là sai, ít nhất cũng không dưới dạng thức của một giáo điều đơn giản nào đó tự tạo ở nhà. Chúng ta sẽ không lên án thời Trung cổ đơn giản chỉ vì họ không đạt tới chuẩn mực đạo đức hay trí tuệ của đám trí thức nổi loạn (révolté) của Paris thế kỉ 18, hay sau đó lại lên án đám trí thức này vì về phần mình họ bị đám người mù quáng về đạo đức ở nước Anh thế kỉ 19 hay ở Mĩ thế kỉ 20 không tan thành. Hoặc là, nếu chúng ta quả thực lên án các xã hội hay các cá nhân, chúng ta sẽ chỉ làm điều này sau khi tính đến các điều kiện xã hội và vật chất của họ, những khát vọng của họ, tập quán giá trị của họ, mức độ tiến bộ và phản động được đo lường dưới dạng thức tình thế và nhân sinh quan của chính họ; và khi chúng ta phán xét họ (tại sao chúng ta lại không được phán xét ở thế giới này kia chứ?), chúng ta phán xét giống như phán xét bất kì ai hay bất kì cái gì: dưới dạng thức phần nào đó là những gì chúng ta ưa thích, tán thưởng, tin vào và tự mình nghĩ là đúng, phần nào khác là những quan điểm của các xã hội và các cá nhân đang được xem xét cũng như chúng ta nghĩ gì về những quan điểm như thế, và như chúng ta đang hiện hữu thì chúng ta nghĩ xa đến đâu về chuyện có những quan điểm khác nhau thật đa dạng là điều tự nhiên và đáng mong muốn; và chúng ta nghĩ gì về tầm quan trọng của các động cơ như tương phản với các hệ quả, hoặc là tầm quan trọng của giá trị nơi các hệ quả như tương phản với phẩm chất của các động cơ, cũng như các điều tương tự khác. Chúng ta phán xét như chúng ta phán xét, chúng ta nhận lấy sự mạo hiểm đi kèm theo đó, chúng ta tiếp thu sự điều chỉnh bất cứ ở đâu mà điều đó có vẻ có giá trị, có vẻ [cho thấy] chúng ta đi quá xa và dưới áp lực đó chúng ta rút lại ý kiến của mình. Chúng ta khái quát hóa thật hấp tấp, chúng ta bị chứng tỏ là sai lầm, và nếu chúng ta trung thực, chúng ta rút lại ý kiến của mình. Chúng ta tìm kiếm sự thấu hiểu và công chính, hoặc là chúng ta tìm kiếm việc rút ra những bài học thực tiễn, hay được vui thích, và chúng ta bộc lộ mình ra cho việc ca ngợi, chê trách, phê bình, chỉnh sửa và hiểu lầm. Thế nhưng trong giới hạn chúng ta tự cho là hiểu được những chuẩn mực của những người khác, dù là những thành viên của chính xã hội chúng ta hay thành viên của những đất nước và thời đại xa xôi, nắm bắt được những gì chúng ta được nói cho biết bởi những người phát ngôn của nhiều truyền thống và thái độ khác nhau, hiểu được tại sao họ nghĩ như họ nghĩ và nói những điều họ nói, vậy thì, trong khuôn khổ những tuyên bố đó [của chúng ta] không phải là giả dối một cách lố bịch, “tính tương đối” và “tính chủ quan” của những nền văn minh khác không ngăn được chúng ta chia sẻ những giả thiết chung, đủ để có được sự giao lưu nào đó với họ, nhằm hiểu biết và được hiểu thấu ở một mức độ nào đó.

Nền tảng chung này chính là cái được gọi một cách đúng đắn là khách quan - tức là cho phép chúng ta đồng nhất hóa những người khác và những nền văn minh khác như có nhân bản và văn minh ở mức nào đó. Khi điều này bị đổ vỡ chúng ta ngừng hiểu biết, và theo giả thuyết (ex hypothesi), chúng ta phán xét sai; thế nhưng cũng theo chính giả thuyết ấy, chúng ta không thể chắc chắn được sự giao lưu đã bị phá vỡ nhiều đến đâu, chúng ta bị lừa dối bởi những ảo ảnh lịch sử nhiều đến đâu, chúng ta không thể lúc nào cũng né tránh được điều này hay không đếm xỉa đến những hậu quả của nó. Chúng ta tìm kiếm hiểu biết bằng cách không quản phiền hà như chúng ta có thể, để ghép lại những mảnh vỡ của quá khứ, đưa ra những trường hợp tốt nhất, khả tín nhất đối với những nhân vật và thời đại xa cách do không được đồng cảm hay do nguyên nhân nào đó mà chúng ta không thể biết; chúng ta cố gắng hết mức để mở rộng ranh giới của tri thức và trí tưởng tượng; còn đối với những gì xảy ra ở bên ngoài mọi biên giới khả dĩ thì chúng ta chẳng thể nói gì và hậu quả là chúng ta không quan tâm tới vì những thứ đó chẳng là gì hết đối với chúng ta. Những gì chúng ta thấy rõ, chúng ta tìm cách miêu tả chúng thật cẩn trọng và đầy đủ như có thể; còn về bóng tối vây quanh phạm vi tầm nhìn của chúng ta thì đó là điều chúng ta không rõ, đối với nó những phán xét của chúng ta chẳng phải chủ quan cũng chẳng khách quan; những gí nằm bên ngoài đường chân trời của tầm nhìn không thể gây xáo trộn cho chúng ta với những gì chúng ta có khả năng nhìn thấy và tìm kiếm hiểu biết; những gì chúng ta không bao giờ có thể biết được thì không thể gây hoài nghi cho chúng ta hay bác bỏ việc chúng ta làm. Một số những phán xét của chúng ta chắc chắn là tương đối và chủ quan, nhưng những phán xét khác thì không phải như vậy; vì nếu chẳng có phán xét nào như thế, nếu tính khách quan về nguyên tắc là không thể quan niệm được, thì những thuật ngữ “chủ quan” và “khách quan” sẽ không còn tương phản nhau, hẳn sẽ vô nghĩa; vì rằng mọi thứ tương liên đều đứng vững hay sụp đổ cùng với nhau. Cũng như vậy đối với luận cứ thế tục cho rằng chúng ta không được phán xét, để khỏi bị phán xét - mọi chuẩn mực đều tương đối -, với hệ luận cũng sai lầm ngang bằng nó rằng không một cá nhân nào trong lịch sử có thể bị tuyên án chính xác là vô tội hay có tội, vì các giá trị mà anh ta được miêu tả như thế dưới dạng thức của chúng, [những giá trị ấy] là chủ quan, nảy sinh từ tư lợi hay từ lợi ích giai cấp hay từ một thời lờ đang trôi qua của một nền vãn hóa hay là từ nguyên nhân nào đó khác; và do đó bản án không có giá trị “khách quan” và không có căn cứ hiện thực.

Thế còn luận cứ khác - châm ngôn hiểu được tất cả (tout comprendre) thì thế nào? Nó viện dẫn đến trật tự của thế giới. Nếu thế giới đi theo một thiết kế xác định và mỗi phần tử ở trong nó đều bị tất định bởi mỗi phần tử khác, khi ấy hiểu được một sự kiện, một nhân vật, một nền văn minh, ấy là nắm bắt được mọi quan hệ của nó với bản thiết kế vũ trụ mà ở trong bản thiết kế ấy nó đóng một vai trò độc nhất vô nhị; và nắm bắt được ý nghĩa của nó là nắm bắt được giá trị của nó, cũng như sự biện minh cho nó, như tôi đã chứng tỏ trước đây. Hiểu được toàn thể bản giao hưởng vũ trụ là hiểu được mỗi nốt nhạc của nó; phản đối, lên án, than phiền chỉ đơn thuần chứng tỏ người ta đã không hiểu nổi. Trong hình thức siêu hình học lí thuyết ấy tự cho mình là cảm nhận được bản thiết kế “hiện thực”, cho nên sự mất trật tự bề ngoài chỉ là một phản ánh bị méo mó của trật tự hoàn vũ - và đồng thời cũng là nền tảng và mục đích của mọi thứ có ở trong đó - “ở bên trong” hay “ở bên ngoài” hay “ở bên dưới”. Đây là triết thuyết muôn thuở (philosophia perennis) của những người đi theo Plato và Aristotle, Triết gia kinh viện và những người đi theo Hegel, những triết gia phương Đông và những nhà siêu hình đương thời, họ là những người phân biệt giữa hiện thực hài hòa vốn là vô hình, với những biểu hiện hỗn loạn nhìn thấy được. Hiểu thấu, biện minh, giải thích đều là những quá trình đồng nhất với nhau. 

Những phiên bản thường nghiệm luận của quan điểm này có hình thức của niềm tin vào một loại nào đó của nguyên lí nhân quả xã hội học mang tính phổ quát. Một số phiên bản có tính lạc quan như những lí thuyết của Turgot và Comte, những người theo thuyết tiến hóa mới nổi lên, những nhà Không tưởng khoa học và những tín đồ tin tưởng vững chắc vào sự gia tăng phẩm chất và tính đa dạng của hạnh phúc con người. Một lựa chọn khác như trong phiên bản của Schopenhauer, chúng có thể có tính bi quan và giữ quan niệm về viễn cảnh đau khổ triền miên không dứt mà mọi nỗ lực của con người nhằm ngăn chặn sẽ chỉ dẫn đến gia tăng đau khổ mà thôi. Hoặc có thể giữ thái độ trung lập và chỉ cố tìm kiếm thiết lập khẳng định, rằng tồn tại một chuỗi không thể lay chuyển các nguyên nhân và tác động; rằng mọi thứ, cả tinh thần lẫn vật chất, đều là đối tượng của những định luật có thể khám phá được; rằng hiểu được những định luật ấy không nhất thiết là tán thưởng, mà ít nhất là để cho việc chê trách con người vì đã không làm tốt hơn, trở thành chuyện vô nghĩa; vì rằng đã chẳng có lựa chọn khác khiến cho những người đó có thể - có thể theo nghĩa nhân quả - lựa chọn được; cho nên bằng chứng ngoại phạm về mặt lịch sử của họ là không thể bẻ gãy được. Tất nhiên chúng ta vẫn có thể phàn nàn trong một kiểu cách thuần túy thẩm mĩ. Chúng ta có thể phàn nàn về tính xấu xí, mặc dù chúng ta không thể biến cải nó; và theo cùng cách thức ấy chúng ta có thể phàn nàn về tính ngớ ngẩn, độc ác, hèn nhát, bất công và cảm thấy tức giận hay nhục nhã hay tuyệt vọng, trong khi vẫn nhớ rằng chúng ta không thể chấm dứt những mục đích của chúng; và trong quá trình tự thuyết phục bản thân rằng chúng ta không thể thay đổi hành vi, chúng ta sẽ dừng lại một cách thích đáng việc nói về sự tàn ác hay bất công, mà chỉ đơn thuần nói về những sự kiện đau đớn hay khó chịu; và để trốn chạy khỏi chúng, chúng ta cần giáo dục lại bản thân chúng ta (giả định, một cách khá thiếu nhất quán, giống như nhiều nhà hiền minh Hi Lạp và phái cấp tiến thế kỉ 18, rằng chúng ta được tự do trong việc giáo dục, mặc dù bị điều kiện hóa thật cứng nhắc trong hầu như mọi phương diện khác) để điều chỉnh bản thân chúng ta thích nghi được với hoàn vũ; và trong khi phân biệt những gì là tương đối bền vững với những gì là ngắn ngủi nhất thời, chúng ta tìm cách hình thành những sở thích và những quan điểm và những hoạt động sao cho vừa khớp với khuôn mẫu của các sự vật. Vì nếu chúng ta bất hạnh do không thể có được thứ gì đó chúng ta muốn, chúng ta phải tìm kiếm hạnh phúc trong việc tự dạy bảo mình chỉ ước muốn những gì chúng ta không thể tránh được bằng bất cứ cách nào. Đó là bài học của những người khắc kỉ (Stoics), cũng giống như một số nhà xã hội học hiện đại, tuy ít hiển nhiên hơn. Tất định luận được khẳng định là đã được “chứng minh” bởi quan sát khoa học; trách nhiệm là ảo tưởng; ca ngợi và chê trách là những thái độ chủ quan sẽ bị triệt thoái bởi tiến bộ của tri thức. Giải thích là biện minh; người ta không thể than phiền về những gì không thể nào khác được; và nguyên tắc đạo đức tự nhiên - đời sống của lí lẽ - ấy là nguyên tắc đạo đức và đời sống mà các giá trị của chúng được đồng nhất với cuộc hành tiến của các sự kiện, dù đó là được diễn dịch một cách siêu hình từ sự thấu hiểu trực giác đưa vào bản chất của hiện thực cũng như mục đích tối hậu của nó, hay là được thiết lập nên bằng các phương pháp khoa học.

Thế nhưng liệu bất cứ một người bình thường nào, liệu bất cứ một nhà sử học đang thực hành nào, có tin được một lời nào của câu chuyện hoang đường kì quặc này hay không? 

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng