Bộ máy quan liêu: Biện pháp chữa trị (Phần 9)
1.Thất bại trong quá khứ
Chúng ta phải thừa nhận sự kiện là cho đến nay, tất cả những nỗ lực nhằm ngăn chặn đà thăng tiến của quá trình quan liêu hóa và xã hội hóa đều đã thất bại. Trong hai mươi bảy năm, kể từ ngày Tổng thống Wilson đưa nước Mĩ vào cuộc chiến tranh để thế giới trở thành nơi an toàn cho chế độ dân chủ, chế độ dân chủ ngày càng đánh mất nhiều vị trí hơn1. Chế độ chuyên quyền đã giành được thắng lợi ở hầu hết các nước châu Âu. Ngay cả Mĩ cũng áp dụng những chính sách mà chỉ vài thập kỷ trước đó từng bị chê là “Phổ”. Nhân loại đang công khai tiến tới chế độ toàn trị. Thế hệ đang lên muốn chính phủ kiểm soát mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Các nhà luật học đã xuất bản được những chuyên luận tuyệt vời về việc các cơ quan hành chính độc đoán đang thế chỗ cho chế độ pháp quyền2. Đấy là câu chuyện về việc chính quyền tự quản bị xói mòn thì tất cả các quyền công dân của từng cá nhân cũng không còn và kết quả sẽ là chế độ siêu chuyên quyền, theo kiểu phương Đông. Nhưng những người xã hội chủ nghĩa không thèm quan tâm tới tự do và sáng kiến cá nhân.
Không có tác phẩm văn học trào phúng nào thu được thành công hơn là những cuốn sách dày cộp của các luật sư. Một số nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XIX - Balzac, Dickens, Gogol, Maupassant, Courteline - đã giáng những đòn nặng nề vào chế độ quan liêu. Aldous Huxley thậm chí còn can đảm đến mức biến thiên đường mơ ước của chủ nghĩa xã hội thành đối tượng giễu cợt3. Người đọc vô cùng phấn khởi. Nhưng vừa đọc xong là họ đã vội vàng xin vào làm trong các cơ quan của chính phủ.
Một số người thích cười nhạo những đặc điểm quá nhố nhăng của bộ máy quan liêu. Đúng là lạ lùng khi chứng kiến chính phủ một nước giàu có nhất và quyền lực nhất thế giới điều hành một cơ quan - Cục Kinh tế gia đình của Bộ Nông nghiệp Hoa Kì - mà một trong những nhiệm vụ của nó là thiết kế quần “cho trẻ em mới bắt đầu học cách mặc quần áo”. Nhưng, đối với nhiều người cùng thời với chúng ta, chuyện này không có gì đáng cười hết. Mục đích của họ là hướng đến mô hình quản lí mà sản xuất tất, đồ lót, và tất cả những thứ hữu ích khác đều là nhiệm vụ của chính quyền.
Tất cả những lời phê phán uyên thâm và những lời châm biếm dí dỏm đều chẳng có tác dụng gì, vì chúng không đánh trúng cốt lõi của vấn đề. Quan liêu hóa chỉ là một trong những đặc điểm cụ thể của xã hội hóa. Vấn đề chính là: Chủ nghĩa tư bản hay Chủ nghĩa xã hội? Chọn cái nào?
Những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội cho rằng chủ nghĩa tư bản là hệ thống bóc lột bất công, cực kì bất lợi đối với sự thịnh vượng của quần chúng và tạo ra khốn khổ, suy thoái và bần cùng hóa từng bước một quảng đại quần chúng nhân dân. Mặt khác, họ mô tả xã hội chủ nghĩa không tưởng như miền đất hứa, với “núi sôi, sông rượu”, tất cả mọi người đều sẽ hạnh phúc và giàu có. Họ đúng hay là sai? Đấy là vấn đề.
2. Kinh tế học đối đầu với kế hoạch hóa và chủ nghĩa toàn trị
Đây hoàn toàn là vấn đề của kinh tế học. Không thể giải quyết được vấn đề này nếu không xem xét một cách thận trọng kinh tế học. Không sử dụng luận cứ kinh tế thì không thể vạch trần được những khẩu hiệu dối trá và những học thuyết sai lầm của những người ủng hộ những biện pháp kiểm soát của chính phủ, ủng hộ chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, kế hoạch hóa và chủ nghĩa toàn trị. Dù thích hay không thì thực tế vẫn là, các vấn đề chính của chính trị hiện nay cũng hoàn toàn là vấn đề kinh tế, không nắm được lý thuyết kinh tế thì không thể hiểu được chính trị. Chỉ người nắm vững những vấn đề chính của kinh tế học mới đủ sức xây dựng được ý kiến độc lập về các vấn đề đang được nói tới ở đây. Những người khác chỉ đơn giản là lặp lại những điều họ đã nghe được mà thôi. Họ là con mồi của những kẻ bịp bợm mị dân và những tên lang băm ngu dốt. Thái độ tự tin của họ là đe dọa nghiêm trọng nhất đối với việc bảo vệ chế độ dân chủ và nền văn minh phương Tây.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của người công dân trong cộng đồng dân chủ là tự học và tìm được kiến thức cần thiết để xử lý các công việc của người công dân. Quyền bầu cử không phải là đặc quyền, đặc lợi mà là bổn phận và trách nhiệm đạo đức. Cử tri thực chất là quan chức, văn phòng của anh ta là cơ quan cao nhất và hàm ý nghĩa vụ cao nhất. Người công dân để hết tâm trí vào công tác khoa học trong các lĩnh vực khác hay người nghệ sĩ để hết tâm trí vào sứ mệnh của mình có thể coi đấy là những tình tiết giảm nhẹ, nếu không thực hiện được nhiệm vụ tự học này. Có lẽ những người này có lý khi nói rằng họ phải thực hiện những nhiệm vụ quan trọng hơn. Nhưng tất cả những người trí thức khác mà lơ là, không tự học tập và tự rèn luyện để có thể hoàn thành một cách tốt nhất nhiệm vụ của người cử tri có chủ quyền thì đấy không chỉ là những người nhẹ dạ mà còn có hại.
Thủ đoạn tuyên truyền chính của những người ủng hộ chính sách được cho là “tiến bộ” của chính phủ là lên án chủ nghĩa tư bản về tất cả những hiện tượng không vừa ý trong điều kiện hiện nay và tán dương những cái hay, cái đẹp mà chủ nghĩa xã hội đang chuẩn bị cho nhân loại. Họ chưa bao giờ tìm cách chứng minh những giáo điều ngụy biện của mình hoặc tìm cách bác bỏ những phản đối do các nhà kinh tế học nêu ra. Họ chỉ làm mỗi một việc là gán cho những người kia danh hiệu đầy phản cảm và làm cho người ta nghi ngờ về động cơ của họ. Và, thật không may là, người dân bình thường không thể nhìn rõ được những mưu gian này.
Ví dụ, xin xem xét vấn đề thất nghiệp hàng loạt kéo dài suốt năm này qua năm khác. “Những người tiến bộ” giải thích rằng đấy là tệ nạn thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản. Công chúng ngây thơ sẵn sàng chấp nhận cách giải thích này. Người ta không hiểu rằng trong thị trường lao động không bị cản trở, không bị thao túng bởi áp lực của công đoàn, cũng như bởi tiền công tối thiểu do chính phủ ấn định, thất nghiệp chỉ ảnh hưởng đến một ít người và trong thời gian ngắn. Trong chủ nghĩa tư bản tự do, thất nghiệp là hiện tượng tạm thời không quan trọng; xu hướng chủ đạo là thất nghiệp sẽ không còn. Những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp mới. Nhưng, với tiền công được thiết lập trên thị trường lao động tự do, tất cả những người muốn làm công ăn lương cuối cùng đều kiếm được việc làm. Thất nghiệp, như một hiện tượng hàng loạt, là kết quả của các chính sách “ủng hộ lao động” của các chính phủ và áp lực, cũng như cưỡng ép của công đoàn.
Đối với những nhà kinh tế học, mà “những người tiến bộ” gọi là “phản động”, lời giải thích này hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt. Ngay cả Karl Marx cũng hoàn toàn tin rằng các công đoàn không thể tăng lương cho mọi người lao động4. Những người Marxist giáo điều kiên quyết phản đối tất cả các nỗ lực trong việc ấn định tiền công tối thiểu suốt nhiều năm liền. Họ cho rằng những biện pháp như thế đi ngược lợi ích của tuyệt đại đa số người làm công ăn lương.
Thật là ảo tưởng khi tin rằng các khoản chi tiêu của chính phủ có thể tạo việc làm cho những người thất nghiệp, tức là cho những người không thể kiếm được việc làm nếu chỉ dựa vào chính sách của công đoàn hay chính phủ. Nếu các khoản chi tiêu của chính phủ được tài trợ bằng những phương pháp không tạo ra lạm phát, tức là bằng thuế khóa hoặc bằng những khoản vay từ công chúng, thì một tay nó xóa bỏ những chỗ làm việc mà vừa tạo ra bằng tay kia. Còn nếu các khoản chi tiêu được tài trợ bằng cách gây ra lạm phát, tức là bằng cách đưa thêm tiền vào lưu thông hoặc bằng cách vay các ngân hàng thương mại, thì chỉ làm giảm thất nghiệp nếu tiền công lẽo đẽo theo sau đà gia tăng giá hàng hóa, nghĩa là, nếu tiền công thực tế giảm. Chỉ có một con đường dẫn tới tăng tiền công thực tế cho tất cả những người muốn làm công ăn lương: Tích lũy từng bước tư bản mới và cải thiện các phương pháp sản xuất mà tư bản mới tạo ra. Lợi ích thực sự của người lao động trùng hợp với lợi ích của doanh nghiệp.
Muốn nắm được các vấn đề kinh tế thì không cần phải ăn sống nuốt tươi những sự kiện và số liệu có liên hệ hoặc chẳng có liên hệ gì với nhau. Mà phải dùng tư duy duy lí để phân tích và khảo sát một cách cẩn thận các tình huống. Trước hết, cần lẽ thường (common sense) và sáng suốt trong tư duy. Quy tắc chính là đi thẳng đến cội nguồn tất cả các hiện tượng. Không chấp nhận những lời giải thích và giải pháp hời hợt. Hãy sử dụng sức mạnh của tư duy và khả năng phản biện của mình.
Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu cho rằng khuyến nghị nghiên cứu kinh tế là nhằm thay thế công tác tuyên truyền của các chính phủ và các đảng phái bằng hình thức tuyên truyền khác. Tuyên truyền là một trong những việc làm tồi bại nhất của bộ máy quan liêu và chủ nghĩa xã hội. Tuyên truyền bao giờ cũng là dối trá, ngụy biện và mê tín. Chân lý không cần tuyên truyền; nó tự bảo vệ được mình. Dấu hiệu đặc trưng của chân lý là nó phản ánh chính xác thực tế, nghĩa là, phản ánh tình hình như nó đang là, dù người ta có công nhận ra nó hay không. Công nhận và công bố chân lí tự nó đã là lên án tất cả những thứ không phải là chân lí rồi. Nó tiếp tục hiện diện vì sự kiện đơn giản là đấy là chân lý.
Vì vậy, hãy để các tiên tri giả tiếp tục đi theo con đường của mình. Đừng cố gắng bắt chước các chính sách của họ. Đừng cố gắng bịt miệng và đẩy những người bất đồng chính kiến ra ngoài vòng pháp luật như các tiên tri giả kia đang làm. Những kẻ dối trá sợ sự thật và do đó, tìm mọi cách ngăn chặn người ta nói ra sự thật. Nhưng, những người ủng hộ sự thật hy vọng vào sự đúng đắn của chính mình. Sự thật không sợ những kẻ dối trá. Nó có thể thắng trong cuộc cạnh tranh. Các cán bộ tuyên truyền có thể tiếp tục truyền bá những điều họ tự bịa ra và nhồi sọ giới trẻ. Họ sẽ thất bại một cách bi thảm.
Lênin và Hitler biết rất rõ vì sao họ xóa bỏ quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí và vì sao họ đóng cửa biên giới nước mình, không cho nhập khẩu bất kì tư tưởng nào từ nước ngoài. Hệ thống của họ không thể nào tồn tại được nếu không có trại tập trung, không có những kẻ kiểm duyệt và bọn đao phủ. Công cụ chính của họ là G.P.U. và Gestapo5.
Những người ủng hộ xã hội hóa và quan liêu hóa ở nước Anh nhận thức rõ chẳng khác gì các đảng viên Bolshevik và Quốc xã về sự kiện là khi còn tự do ngôn luận và tự do tư tưởng thì họ sẽ không bao giờ đạt được mục đích của mình. Giáo sư Harold I. Jaski6 đã tuyên bố thẳng thừng rằng hạn chế quyền của Nghị viện là điều kiện cần nhằm bảo vệ giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội7. Sir Stafford Cripps - ứng cử viên được ưa chuộng của những người tự xưng là theo phái tự do - muốn giành chức Thủ tướng chính phủ, đã đưa ra “Đạo luật về kế hoạch hóa và giao quyền”, mà nếu được Nghị viện thông qua, thì sau đó không ai được bàn cãi và không được rút lại8. Nhờ đạo luật này, mà nó phải rất chung chung, tất cả “các tiểu tiết” đều để cho nội các quy định, chính phủ sẽ được trao những quyền lực không bao giờ bị thu hồi. Nghị viện không bao giờ xem xét các chỉ thị và nghị định của chính phủ, cũng không được trông cậy vào tòa án. Tất cả các cơ quan đều phải do “các đảng viên trung thành”, “những người giữ các quan điểm xã hội chủ nghĩa mà mọi người đều biết” nắm giữ9. “Hội đồng Giáo sĩ ủng hộ quyền sở hữu cộng đồng của nước Anh tuyên bố trong một cuốn sách mỏng - Giám mục Bradford viết lời nói đầu - rằng muốn thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện thực và vĩnh viễn thì phải “loại bỏ tất cả các phái đối lập chủ yếu, nghĩa là, làm cho người ta trở thành ù lì về chính trị, tước quyền bầu cử, và nếu cần, tống vào tù”10. Giáo sư Joan Robinson ở Đại học Cambridge, người chỉ đứng sau Lord Keynes trong trường phái Keynes, cũng sốt sắng không thua gì ông kia trong việc thiết lập chủ nghĩa xã hội11. Theo quan điểm của bà này: “khái niệm tự do là rất tù mù. Chỉ khi không có kẻ thù đáng sợ, cả bên trong lẫn bên ngoài, thì mới được hoàn toàn tự do ngôn luận”. Bà Robinson không chỉ sợ các nhà thờ, các trường đại học, hội khoa học và các nhà xuất bản độc lập, mà còn sợ cả các nhà hát và hội âm nhạc độc lập nữa. Bà ta cho rằng tất cả các tổ chức đó chỉ được phép tồn tại “với điều kiện là chế độ đủ an toàn trước nguy cơ bị chỉ trích”12. Một người ủng hộ chủ nghĩa tập thể lỗi lạc nữa ở Anh, J. G. Crowther, thậm chí còn ca ngợi tòa án dị giáo13. Đáng tiếc là dòng họ Stuarts không sống đến ngày nay để chứng kiến ngày mà những nguyên tắc của họ giành được chiến thắng14!
Như vậy là, những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nổi bật nhất đã ngấm ngầm thừa nhận rằng các giáo lý và kế hoạch của họ không thể đứng vững được trước những lời phê phán của của khoa học kinh tế và sẽ chắc chắn sẽ thất bại trong chế độ tự do.
Nhưng may mắn là vẫn còn một số nước tự do, vẫn còn hi vọng là sự thật sẽ hồi sinh.
Chú thích:
(1) Wilson Thomas Woodrow (1856-1924) - tổng thống Hoa Kỳ giai đoạn 1913-1921. Đi ngược lại trào lưu của chủ nghĩa biệt lập đang dâng lên ở trong nước, Wilson vẫn kiên trì theo đuổi đường lối “sẵn sàng tham chiến”. Ngày 6 tháng 4 năm 1917, Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức – chú thích bản tiếng Nga, ND.
(2) Có thể chỉ cần trích dẫn hai tác phẩm tuyệt vời nhất thuộc loại này: The New Despotism (Chế độ chuyên chế mới) của Lord Hewart of Bury – người đứng đầu tối cao pháp viện Anh (New York, 1929), Our Wonderland of Bureaucracy (Xứ sở quan liêu của chúng ta) của James M. Beck, Thứ trưởng Bộ tư pháp Hoa Kì (New York, 1932). Cần phải nói rằng tác phẩm của James M. Beck được xuất bản trước khi Chính sách Kinh tế Mới được công bố.
(3) Ý nói tác phẩm Thế giới mới tươi đẹp (The brave New World), xuất bản năm 1932 của Aldous Huxley (1894-1963) – chú thích bản tiếng Nga, ND.
(4) Mises trình bày không chính xác quan điểm của Marx. Không phủ nhận khả năng đạt được - với sự trợ giúp của công đoàn - tăng lương cao hơn mức tối thiểu, cần để bảo đảm đời sống của người lao động, Marx tin rằng “xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không dẫn đến tăng mà dẫn đến giảm mức lương trung bình ... Công đoàn là trung tâm kháng cự trước cuộc tấn công của tư bản ... Nói chung, họ thất bại, vì họ tự giới hạn mình trong cuộc đấu tranh theo lối du kích nhằm chống lại những hậu quả của hệ thống hiện hành, chứ không đồng thời tìm cách thay đổi nó” (К. Маркс, Ф. Энгельс, Toàn tập, T. 16, tr. 155) – chú thích bản tiếng Nga, ND.
(5) GPU – Cục bảo vệ chính trị trực thuộc Bộ nội vụ (NKVD) Liên xô. Cơ quan này được thành lập năm 1922 trong quá trình tổ chức lại Ủy ban đặc biệt toàn Nga, là cơ quan bảo vệ an ninh quốc gia; thực hiện chức năng của cơ quan cảnh sát chính trị. Gestapo - Geheime staatspolizei (tiếng Đức), cảnh sát bí mật của nhà nước, được thành lập sau khi Hitler giành được quyền lực. Sau khi quốc xã sụp đổ, cơ quan này bị Tòa án quân sự quốc tế coi là tổ chức tội phạm – chú thích bản tiếng Nga, ND.
(6) Laski Harold Joseph (1893-1950) - một trong những lý luận gia của “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, từ 1936 đến 1949 thành viên ban chấp hành Đảng Lao động Anh – chú thích bản tiếng Nga, ND.
(7) Laski, Democracy in Crisis (Chế độ dân chủ trong khủng hoảng) (London, 1933), p. 87. Xin mời đọc phản biện đầy uy lực những tư tưởng phản dân chủ của Laski: Rappard, The Crisis of Democracy (Cuộc khủng hoảng chế độ dân chủ) (Chicago, 193 8), pp. 21 3-2 16.
(8) Cripps Richard Stafford (1889-1952) - chính khách người Anh: từ năm 1931 đến năm 1950, nắm nhiều chức bộ trưởng các bộ khác nhau. Trong những năm 30 (TK XX) – là lãnh đạo cánh tả của Đảng Lao động. Ông ủng hộ mặt trận thống nhất với những người cộng sản, vì vậy mà năm 1939 bị Đảng Lao động khai trừ (được phục hồi đảng tịch năm 1945) – chú thích bản tiếng Nga, ND.
(9) Xin mời đọc bài báo tuyệt vời của James Truslow Adams, “Planners See where Planning Leads” [Những người lập kế hoạch biết kế hoạch dẫn tới đâu] trong Barron's National Business and Financial Weekly of January 3 I, 1944, tr. 3.
(10) Tác phẩm vừa dẫn.
(11) Keynes John Maynard (1883-1946) - Nhà kinh tế học người Anh, người tạo ra một trong những khái niệm có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XX (mang tên ông). Theo Keynes, để ngăn chặn khủng hoảng, duy trì nhu cầu hữu hiệu và toàn dụng lao động, cần có sự tác động tích cực của chính phủ đối với nền kinh tế bằng các đơn đặt hàng, thuế, lạm phát được điều tiết..v.v.. Robinson Joan Violett (1903-1983) - nhà kinh tế học người Anh, theo trường phái Keynes. Đầu những năm 30 (TK XX), bà đưa ra lý thuyết về cạnh tranh không hoàn hảo, theo đó, sự xuất hiện của các công ty độc quyền làm cho những tác nhân tự phát của nền kinh tế không hoạt động được nữa, nhà nước cần can thiệp vào hoạt động kinh tế - chú thích bản tiếng Nga, ND.
(12) Joan Robinson, Private Enterprise or Public Control [Doanh nghiệp tư nhân hay Kiểm soát của nhà nước (Sổ tay cho các nhóm Thảo luận, do English Universities Press Ltd xuất bản, dành cho Hiệp hội Giáo dục Công dân), trang 13-14. Lạ lùng là trong Lời nói đầu tác phẩm này, Hiệp hội tuyên bố “chúng tôi ủng hộ dân chủ” và chỉ ra rằng mục tiêu của họ là huấn luyện công dân “tôn trọng các quyền bình đẳng và tự do của những người khác”.
(13) G. Crowther, Social Relations of Science [Quan hệ xã hội của khoa học] (Macmillan, 1941), pp. 33 1, 333.
(14) Vương triều Scotland và nước Anh, là những người Công giáo cuồng tín. James II, vị vua Công giáo cuối cùng, đã tìm cách biến Công giáo thành quốc giáo, không cho tín đồ các tôn giáo khác nắm những chức vụ trong chính quyền – chú thích bản tiếng Nga, ND.
Nguồn: Ludwig von Mises, Bureaucracy, Yale University Press, 1944