![[Đại cương về thuế] - Chương 3: Mục đích và vấn đề](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k250018.3_(1).jpg)
[Đại cương về thuế] - Chương 3: Mục đích và vấn đề
CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH VÀ VẤN ĐỀ
Mục đích chính của thuế là tạo thu ngân sách để tài trợ cho các dịch vụ do chính phủ cung cấp, chẳng hạn như quốc phòng, hệ thống tư pháp, đường sá, giáo dục, phúc lợi, lương hưu và chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, thuế cũng được sử dụng cho những mục đích khác. Ví dụ, chính phủ có thể tìm cách điều tiết nền kinh tế và làm dịu các chu kỳ bùng nổ-suy thoái bằng cách tăng thuế trong thời kỳ bùng nổ và giảm thuế trong thời kỳ suy thoái. Hoặc chính phủ có thể hướng đến mục tiêu làm giảm tình trạng bất bình đẳng bằng cách tăng thuế đánh vào người giàu và giảm thuế đối với những đối tượng khác. Chính phủ cũng có thể hy vọng làm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm có hại như rượu, thuốc lá và nhiên liệu có chì bằng cách đánh thuế những mặt hàng này.
Tuy nhiên, đôi khi, chính phủ sử dụng thuế cho những mục đích không được cao quý như thế. Ví dụ, thuế có thể được phân bổ cho hoặc không cho các nhóm người cụ thể nào đó (chẳng hạn như chủ sở hữu bất động sản) với mục đích là mang lại lợi ích cho những người ủng hộ đảng cầm quyền. Hoặc thuế có thể được sử dụng nhằm mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất trong nước được nhà nước ưu ái bằng cách đánh thuế hàng nhập khẩu giá rẻ. Thậm chí vì thái độ đố kị, người ta có thể đánh thuế những nhóm người thành công, hoặc vì ác cảm mà người ta đánh thuế các dân tộc thiểu số hay các nhóm tôn giáo nào đó.
Tại sao lại phải đóng thuế?
Nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các chính phủ - tìm cách gây quỹ từ thuế - là thiết lập hòa bình và an ninh: bảo vệ công dân khỏi những hành động thù địch từ ngoại quốc và tội phạm trong nước, làm cho cuộc sống và tự do trở thành khả thi (ví dụ, xem Leviathan của Thomas Hobbes, 1651). Có nghĩa là đứng lên chống lại đe dọa hoặc sử dụng vũ lực của các thế lực ngoại quốc, và bảo vệ công dân, không để họ bị đe dọa, lừa dối, gian lận hoặc bạo lực từ chính đồng bào của mình. Đây không phải là nhiệm vụ nhỏ bé, cũng không phải là nhiệm vụ dễ dàng, vì nó đòi hỏi phải xây dựng các thiết chế vững mạnh.
Ví dụ, giữ gìn hòa bình và an ninh ám chỉ phải có hệ thống quốc phòng, an ninh, cảnh sát và tư pháp. Có nghĩa là phải có lực lượng vũ trang có thể phản ứng một cách hiệu quả trước bất kỳ cuộc tấn công nào. Cũng có nghĩa là phải có lực lượng cảnh sát đủ sức ngăn chặn tội phạm, điều tra và truy tố khi hành động phạm tội xảy ra. Cũng có nghĩa là phải có hệ thống tòa án và hình phạt.
Thậm chí, có thể ám chỉ phải có hệ thống quản lý nhằm đảm bảo rằng tất cả các cơ quan này đều hoạt động vì lợi ích công cộng và không bị mua chuộc. Cũng cần phải có thiết chế, chẳng hạn như quốc hội, để quyết định những hành động nào bị coi là thù địch hoặc hình sự; biện pháp hoạt động của bộ máy quốc phòng, cảnh sát và tư pháp; và hình phạt phù hợp khi có hành động phạm tội. Và có lẽ cần có cơ quan công quyền để quản lý tất cả các chức năng này. Cần tài trợ để chính phủ thực hiện tất cả các chức năng cơ bản.
Kẻ ăn không (free rider1). Hầu hết mọi người đều thấy được lợi ích của việc có quốc phòng và an ninh: nhưng liệu tất cả mọi người có tự nguyện đóng góp cho việc đó hay không? Miễn là có đủ người đóng góp thuế để đảm bảo đất nước và cộng đồng được bảo vệ tốt, thì những người khác có thể được hưởng lợi ngay cả khi họ không đóng góp gì. Trong trường hợp đó, có thể khó có người đóng góp, vì biết rằng họ có thể “ăn theo” những người đóng góp.
Giải pháp thông thường cho vấn đề này là buộc mọi người phải trả tiền cho những dịch vụ này, bằng cách đe dọa trừng phạt nếu không tuân thủ. Nói cách khác, là đánh thuế các công dân.
Đây không phải là lựa chọn hoàn toàn dễ chịu. Sử dụng vũ lực nhằm chống lại người dân chính xác là việc mà chính phủ nên giảm đến mức tối đa. Một số người có thể phản đối mang tính đạo đức việc tiền thuế của họ bị chi cho vũ khí, hoặc để thực thi những luật lệ mà họ cho là bất công, hay chống lại việc cầm tù những người khác. Tuy vậy, đa số đồng ý rằng đánh thuế — ít nhất là để phục vụ cho các mục đích bảo vệ cơ bản như thế — là chính đáng.
Phạm vi dịch vụ?
Vấn đề gây tranh cãi gay gắt hơn là những thiết chế và dịch vụ nào là cần thiết đến mức không thể được tài trợ bằng những cách khác, phải dùng tiền thuế để trả.
Không có ranh giới rõ ràng. Ngay cả Adam Smith - mặc dù là người chỉ trích chính phủ cồng kềnh - vẫn tin rằng nhà nước có vai trò trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng như cầu đường và bến cảng. Ông lập luận rằng những cơ sở hạ thầng là rất quan trọng đối với thương mại và làm giàu cho xã hội, mặc dù không bao giờ có thể mang lại lợi nhuận cho bất kỳ nhà cung cấp nào. Ông cho rằng nhà nước cũng có vai trò trong việc cung cấp trường học và giáo dục cho người lớn, vì những trường học và giáo dụ là rất quan trọng đối với văn hóa và sức khỏe tinh thần của người lao động và gia đình họ (Butler 2007).
Nhưng dường như không có giới hạn logic nào cho những việc làm như thế. Ví dụ, cơ sở hạ tầng có thể được mở rộng đến mức nhà nước cung cấp cả các phương tiện giao thông vận tải. Giáo dục có thể vượt ra ngoài lĩnh vực học tập phổ thông và nhà nước cung cấp cả các trường cao đẳng, chương trình học tập cho người lớn và các khóa học nghề. Chăm sóc sức khỏe có thể được dùng để biện minh cho việc nhà nước trả lương cho không chỉ bác sĩ và chi phí điều trị mà còn tài trợ cho cả các câu lạc bộ sức khỏe và thậm chí cả các lớp học khiêu vũ. Có thể nói, những hàng hóa và dịch vụ này đều có thể giúp làm gia tăng hiệu quả kinh tế của đất nước. Nhưng, những người chỉ trích đặt câu hỏi, liệu tất cả những hoạt động này có phải đều do chính phủ tài trợ, bằng tiền thuế hay không?
Hàng hoá công. Chính phủ cũng cung cấp các tiện ích, ví dụ như công viên khu vực và quốc gia, hải đăng và đèn đường, được phân loại là “hàng hóa công cộng” vì khó có thể ngăn cản bất kỳ cứ người nàp tiếp cận các lợi ích của những loại hàng hoá này, và nhiều người có thể hưởng lợi ích cùng một lúc. Ở đây, luận cứ được đưa ra là nếu không có thuế, thì không bao giờ có những hàng hoá này, vì người ta có thể “ăn theo” mà không phải trả tiền, và không có người sản xuất nào chịu đầu tư vào những lĩnh vực này.
Nhưng danh sách những sản phẩm gọi là “hàng hóa công cộng” dường như là bị phóng đại. Thông thường, những loại hàng hóa này thực sự có thể được thu phí, hoặc được tài trợ theo cách khác, mà không cần dùng tiền thuế. Ngay cả hải đăng – từ lâu được ca ngợi là loại hàng hóa công cộng thuần túy nhất vì bất kỳ tàu thuyền nào đi qua cũng tiếp cận được tín hiệu cảnh báo, thậm chí khi không phải trả tiền – cũng bắt nguồn từ việc các hoa tiêu đốt lửa để quảng cáo dịch vụ hàng hải của mình; trong một thời gian dài, hải đăng được tài trợ bằng phí thu trên các tàu thuyền ghé vào các cảng hải gần đó (xem Geloso 2019).
Các công viên quốc gia cũng có thể được tài trợ bằng cách bán quyền thăm dò khoáng sản, hoặc bằng phí đỗ xe và chỗ cắm trại, cũng như bán thực phẩm, đồ uống, đồ lưu niệm, cây cảnh và nhiều thứ khác2. Các trung tâm mua sắm cung cấp cho khách hàng những hàng hóa công cộng như đèn chiếu sáng, hệ thống sưởi ấm, an ninh, chỗ ngồi và nhà vệ sinh, không phải bằng cách tính phí trực tiếp cho từng mặt hàng mà bằng cách tính phí tiện ích “trọn gói” đối với các đơn vị thuê các gian hàng. Các nhóm tình nguyện giữ gìn vệ sinh công viên, bãi biển và các cơ sở khác. Và các công nghệ mới cho phép các nhà cung cấp loại trừ những người “ăn theo” - chẳng hạn như gây nhiễu tín hiệu truyền hình cáp và vệ tinh hoặc xác định và tính phí những người lái xe sử dụng những con đường đang bị tắc.
Tóm lại, mặc dù thuế có thể là biện pháp rõ ràng nhằm tài trợ cho nhiều hàng hóa và dịch vụ, và có thể là không thể nào tránh được, nhưng vẫn còn nhiều khả năng khác - thường bị bỏ qua - cần được xem xét.
Thuế để tài trợ cho đầu tư công
Như Adam Smith đã nhận xét, việc tài trợ cho một số khoản đầu tư về vật chất (ví dụ, cơ sở hạ tầng như thông tin liên lạc, giao thông, hoặc nhà cửa) hoặc đầu tư cho con người (ví dụ, giáo dục, kỹ năng, kiến thức và nghiên cứu và phát triển) có thể không manh lại lợi ích cho các cá nhân tư nhân – mặc dù thực tế là đầu tư vào những hạng mục đó sẽ mang lại lợi ích cho toàn thể cộng đồng. Do đó, dường như việc chính phủ đầu tư vào các dự án này là quan trọng, cần thiết và không thể tránh được.
Tuy nhiên, đầu tư do chính phủ chủ trì cũng có những vấn đề của nó. Những người chỉ trích cho rằng nó “lấn át” các khoản đầu tư tư nhân do chiếm dụng phần lớn vốn khả dụng, và đầu tư công, do các chính trị gia và công chức thúc đẩy, kém hiệu quả hơn so với đầu tư do các doanh nhân hướng vào giá trị thúc đẩy.
Đầu tư hay chi tiêu? Một vấn đề khác là tính linh hoạt của thuật ngữ “đầu tư công”. Các nhà kinh tế học coi đầu tư là việc sử dụng nguồn lực để mua hoặc tạo ra hàng hóa, từ đó sản xuất ra các hàng hóa hoặc dịch vụ khác nhanh hơn, tốt hơn hoặc rẻ hơn, hoặc tạo ra lợi nhuận tài chính. Do đó, khi các nhà sản xuất chi tiền mua máy móc, hoặc người dân đi học thêm buổi tối để có bằng cấp, đủ điều kiện cho những công việc được trả lương cao hơn, hoặc mua trái phiếu để có thu nhập khi nghỉ hưu, thì đó là đầu tư.
Trong khu vực công, việc chi tiền xây dựng một con đường cao tốc mới hoặc bến cảng giúp tăng tốc độ vận chuyển người và hàng hóa, hoặc lắp đặt máy quét hộ chiếu sân bay giúp xử lý thủ tục nhập cảnh nhanh hơn, hoặc xây dựng các khu khoa học mới cho trường học thì đấy là đầu tư.
Ngược lại, chi tiêu là việc sử dụng nguồn lực để thỏa mãn nhu cầu trong hiện tại, chứ không phải với hy vọng thỏa mãn trong tương lai. Và trên thực tế, phần lớn chi tiêu của chính phủ ở các quốc gia đã phát triển là chi tiêu “hàng ngày” cho các loại phúc lợi trong hiện tại như trợ cấp phúc lợi, lương hưu, y tế và chăm sóc xã hội, nhà ở, giao thông và thu gom rác thải. Mặc dù một số khoản chi tiêu này có thể mang lại lợi ích trong tương lai, nhưng tất cả đều chủ yếu mang lại lợi ích cho chúng ta ngay trong hiện tại. Các chính trị gia có thể gọi chúng là “đầu tư” vì điều đó nghe có vẻ như là biện pháp sử dụng tiền của người đóng thuế xứng đáng hơn, nhưng không làm cho nó trở thành hợp pháp hơn nhằm biện minh cho việc đánh thuế.
Quản lý kinh tế vĩ mô
Hầu hết các nhà kinh tế học đều cho rằng thuế và chi tiêu của chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc định hướng nền kinh tế quốc gia hướng đến toàn dụng lao động, giá cả ổn định, tăng trưởng kinh tế và tránh các chu kỳ bùng nổ-suy thoái. Họ lập luận rằng chính phủ nên mở rộng chi tiêu hoặc cắt giảm thuế để kích thích nền kinh tế đang gặp khó khăn, hoặc nên cắt giảm chi tiêu hoặc tăng thuế để chống lại lạm phát đang gia tăng. Cách tiếp cận được gọi là quản lý cầu này có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của nhiều quốc gia kể từ sau Thế chiến II.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng bị chỉ trích. Một số người – ví dụ, những người theo trường phái tiền tệ như Milton Friedman (1912–2006) – lập luận rằng các yếu tố khác như lượng tiền do ngân hàng trung ương đưa vào lưu thông lớn hơn tác động của những thay đổi về thuế (xem Butler 2011). Những người khác – ví dụ, Các nhà kinh tế học trường phái lựa chọn công như James Buchanan (1919–2013) – nhận thấy rằng quá trình ban hành quyết định của chính phủ thường phi lý: ví dụ, các chính trị gia sẵn sàng tăng chi tiêu trong thời kỳ khó khăn nhưng lại tỏ ra rất miễn cưỡng cắt giảm trong thời kỳ thuận lợi, và họ thích cắt giảm thuế hơn là tăng thuế (xem Butler 2012a). Do đó, lý thuyết quản lý cầu bị chính trị thực tiễn lấn át. Còn một số nhà quan sát – ví dụ như các nhà kinh tế học Trường phái Áo như F. A. Hayek (1899–1992) – tin rằng những thực tế chính trị này là lý do vì sao những thập kỷ sau chiến tranh lại chứng kiến quá nhiều lạm phát, thất nghiệp, chính phủ phình ra và nợ công gia tăng (xem Butler 2012b).
Tái phân phối
Mục tiêu chung khác của thuế là thúc đẩy bình đẳng kinh tế bằng cách chuyển gánh nặng sang những người có khả năng chi trả cao nhất3. Đánh thuế những người khá giả hơn những người khác được coi là công bằng vì đối với người có nhiều tiền, tiền có giá trị thấp hơn so với người nghèo (ví dụ minh họa cho quy luật lợi ích cận biên giảm dần), do đó họ sẽ không cảm thấy mất mát quá nhiều vì phải đóng thuế. Do đó, nhiều quốc gia áp dụng hệ thống thuế “lũy tiến” - những người có thu nhập cao hơn phải trả thuế suất cao hơn những người có thu nhập thấp hơn.
Vấn đề. Tuy nhiên, vẫn có những khó khăn khi sử dụng thuế theo cách này (Butler 2022). Thứ nhất, số liệu thống kê về bất bình đẳng mà chính sách tái phân phối dựa vào có thể làm cho người ta hiểu lầm. Ví dụ, một bức tranh tổng quan về xã hội có thể cho thấy bất bình đẳng lớn về thu nhập và của cải, nhưng phần lớn có thể là do người lớn tuổi, với kinh nghiệm và kỹ năng tốt hơn, kiếm được nhiều tiền hơn thanh niên - ngay cả khi mỗi người có thể kiếm được số tiền như nhau trong suốt cuộc đời của mình. Thứ hai, một số người, chẳng hạn như cầu thủ bóng đá hay ngôi sao ca nhạc, có thể có thu nhập cao, nhưng sự nghiệp của họ có thể là khá ngắn. Xét cả cuộc đời, một lần nữa, họ có thể chẳng khá hơn những người khác là bao. Thứ ba, một số người kiếm được rất nhiều tiền khi làm những công việc nguy hiểm và khó chịu, trong khi những người khác kiếm được ít hơn nhưng lại có công việc dễ dàng và thú vị hơn: bình đẳng không chỉ đơn thuần là tiền bạc. Và thực tế là người ta bình đẳng với nhau hơn là ta tưởng, vì nhiều dịch vụ công cộng – như công viên, không gian mở, đường giao thông, trường học, cảnh sát và nhiều lĩnh vực khác – tất cả mọi người đều tiếp cận được như nhau.
Cũng có những lo ngại về mặt chính trị, đạo đức và thực tiễn về việc sử dụng thuế tạo ảnh hưởng tới một số nhóm người nhiều hơn những nhóm khác. Nó mở đường cho đường lối chính trị đố kỵ - áp thuế cao hơn đối với các nhóm thành công chỉ vì những người khác bất bình với thành công của họ. Đảng cầm quyền có thể thao túng hệ thống thuế khoá nhằm gây thiệt hại cho phe đối lập. Và các nhóm lợi ích đầy sức mạnh có thể nhận được chính sách thuế có tính ưu đãi, mà những nhóm khác không đuọc. Thuế lũy tiến cũng đối xử với mọi người một cách khác nhau, trái với nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Và trên thực tế, thuế lũy tiến đã trở thành rất phức tạp, vì những người chịu thuế suất cao hơn sẽ vận động hành lang để được miễn giảm. (Sự phức tạp như thế là lý do vì sao nhiều nước đã chọn thay thế hệ thống thuế lũy tiến bằng hệ thống “thuế suất đồng đều” - mọi người đều đóng cùng một mức thuế suất)4
Sai lầm, hay ghen tị? Người ta thường cho rằng thuế suất càng cao thì doanh thu của chính phủ càng cao. Nhưng, năm 1974, nhà kinh tế học người Mỹ Arthur Laffer (1940–) đã tạo ra “Đường cong Laffer” nổi tiếng, chứng tỏ rằng doanh thu chỉ tăng đến một mức nhất định, sau đó thì bắt đầu giảm. Có nhiều lý do. Khi thuế suất rất cao, người ta có thể quyết định làm việc ít hơn và nghỉ ngơi nhiều hơn, hoặc nghỉ hưu sớm hơn, hay tự mình đi ra nước ngoài hoặc chuyển doanh nghiệp của mình ra nước ngoài (“chảy máu chất xám”), hoặc thuê kế toán viên với tiền lương cao để tìm cách lách thuế.
Figure 1 The Laffer Curve
Tax rate (%)
Tax revenue
0 t* 1
Tuy nhiên, chúng tôi thường phát hiện được rằng thuế suất, đặc biệt là thuế thu nhập cao nhất, được đặt ở mức nguy hiểm rất gần (và đôi khi cao hơn) điểm doanh thu tối đa trên Đường cong Laffer. Những người có thu nhập cao hơn bắt đầu đóng góp với tỷ lệ thấp hơn vào doanh thu thuế so với trước đây, trong khi cắt giảm thuế suất cao hơn, như đã đề cập trong Chương 1, lại dẫn đến kết quả là họ đóng góp tỷ lệ lớn hơn. Thế thì, vì sao các nhà lập pháp lại đặt ra thuế suất cao như thế, nhưng khi mục đích chính của thuế là tối đa hóa doanh thu của chính phủ trong khi hoạt động kinh tế phải trả giá ít nhất?
Có rất nhiều khả năng. Có lẽ các nhà hoạch định chính sách không hoàn toàn hiểu được luận cứ của Laffer. Hoặc có lẽ họ chỉ thấy hiện tượng gia tăng doanh thu tức thời từ việc tăng thuế, chứ không thấy quá trình suy giảm dần dần của doanh thu khi người dân thay đổi hành vi vì thuế suất tăng. Cũng có thể họ tưởng tượng rằng dân chúng sẽ khó né thuế hơn là đang diễn ra trên thực tế. Mà cũng có thể họ hiểu luận cứ của Laffer nhưng lại tưởng tượng rằng tỷ lệ tối đa hóa doanh thu cao hơn là những hiện tượng diễn ra trên thực tế. Hoặc có lẽ họ chỉ muốn thỏa mãn thái độ ghen tị của công chúng đối với những người có thu nhập cao hơn. Dù lý do là gì, thì cũng rõ ràng là thuế không phải lúc nào cũng được áp dụng một cách hợp lý và dựa trên bằng chứng.
Giải quyết các ngoại ứng tiêu cực
Một mục tiêu khác của thuế có thể là chống lại các ngoại ứng tiêu cực, ví dụ như ảnh hưởng của ô nhiễm không khí và nước đối với hệ sinh thái, hoặc sự chậm trễ và thất vọng do ùn tắc giao thông, hoặc chi phí y tế công cộng do tiêu thụ quá nhiều rượu, thuốc lá và đường. Bằng cách đánh thuế những loại hàng hoá này, chúng ta có thể khiến những người gây ra ngoại ứng tiêu cực phải trả toàn bộ “chi phí xã hội” mà hành động của họ gây ra cho người khác. Những loại thuế này được gọi là thuế Pigou - theo tên nhà kinh tế học người Anh Arthur
Pigou (1877–1959). Có thể có nhiều hình thức, chẳng hạn như phí ùn tắc giao thông và thuế nhiên liệu, thuế khí thải, thuế carbon, thuế rượu, thuế thuốc lá và thuế đường.
Thuế Pigou là biện pháp tốt hơn nhằm giải quyết các ngoại ứng tiêu cực so với hầu hết các giải pháp thay thế khác. Các lựa chọn tư pháp, ví dụ, đưa người gây ô nhiễm ra tòa, thường chậm và tốn kém, và chỉ được thực thi sau khi thiệt hại đã xảy ra. Quy định thường thô sơ; ví dụ, việc cấm hoàn toàn một số khí thải độc hại là quá khắc nghiệt đối với những ngành công nghiệp không còn lựa chọn nào khác, hoặc chỉ tạo ra lượng ô nhiễm ở mức có thể kiểm soát được. Giới hạn mức độ ô nhiễm không tạo động lực cho những ngành dưới mức giới hạn cắt giảm lượng khí thải của họ thêm nữa. Ngược lại, thuế khí thải khuyến khích tất cả mọi người, trong mọi ngành công nghiệp, giảm thiểu lượng khí thải bất cứ khi nào có thể.
Các nhà kinh tế học ủng hộ thuế Pigou còn vì hai lý do khác nữa. Thứ nhất, như đã nói bên trên, nếu có cơ cấu tốt, chúng sẽ làm cho chi phí ngoại ứng của một cá nhân hoặc doanh nghiệp gia tăng (chẳng hạn như ô nhiễm không khí từ các hoạt động của họ) lên đến mức chi phí (chẳng hạn như bệnh phổi) mà những người khác phải chịu. Thứ hai, nếu các cá nhân và doanh nghiệp phải trả tiền vì gây ra ô nhiễm, thì họ không muốn làm như thế nữa, kết quả là môi trường và phúc lợi xã hội đều được cải thiện. Khoản thuế này cũng có thể là nguồn thu hữu ích cho chính phủ.
Tuy nhiên, thuế Pigou cũng gặp phải những vấn đề cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Nhà kinh tế học người Anh Ronald H. Coase (1910–2013) lập luận rằng yếu tố quan trọng trong các vấn đề như ô nhiễm là chi phí giao dịch - những người gây ô nhiễm và những người bị ảnh hưởng có thể dễ dàng hay khó khăn mới đạt được thỏa thuận về vấn đề này - và thuế có thể là một lựa chọn không hiệu quả (Coase 1960). Hơn nữa, còn có những vấn đề về tính toán và kiến thức được nhà kinh tế học người Áo Ludwig von Mises (1881–1973) xác định (Butler 2010a). Rất khó xác định chính xác chi phí xã hội cao đến mức nào, và do đó, thuế suất phù hợp nên là bao nhiêu. Ví dụ, có các ước tính rất khác nhau về mức độ ảnh hưởng của khí thải carbon dioxide đối với khí hậu. Việc áp dụng thuế Pigou không chính xác có thể gây ra nhiều thiệt hại hơn là có lợi.
Quản lý thương mại
Một tác dụng khác của thuế là chính sách thương mại. Hầu hết các nước đều đánh thuế xuất nhập khẩu, thường là để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Đôi khi, mục đích là giúp đất nước tự cung tự cấp, hoặc cho các ngành công nghiệp mới của họ thời gian để phát triển đủ lớn, có thể cạnh tranh với các nhà sản xuất rẻ hơn ở nước ngoài (“ngành công nghiệp non trẻ”). Họ cũng có thể tin rằng các nước khác đang đưa vào nước mình hàng hóa một cách không công bằng với giá rẻ hoặc thậm chí thấp hơn giá thành (“phá giá”), có lẽ với mục đích cụ thể là làm suy yếu các nhà sản xuất của nước nhập khẩu và củng cố sự thống trị thị trường của họ. Các nước cũng có thể phản đối hàng nhập khẩu từ các quốc gia không có cùng tiêu chuẩn về việc làm, về môi trường hoặc thực phẩm cao như họ. Họ cũng có thể lo ngại rằng đang chi tiêu nhiều hơn cho việc mua hàng hóa từ các quốc gia khác so với những món hàng các nước khác mua của họ (“chênh lệch”).
Luận cứ về ngành công nghiệp non trẻ là động lực nổi bật của chính sách thương mại trong những năm 1960 và 1970. Các nước đang phát triển tăng thuế nhập khẩu và tạo ra các ngành công nghiệp sản xuất của riêng mình, như sản xuất thép, ô tô, thiết bị gia dụng, thậm chí cả đồ điện tử và máy bay. Nhưng kết quả thật đáng thất vọng. Thông thường, những ngành công nghiệp này không có lợi thế so sánh so với các nhà sản xuất khác, và do không bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh toàn cầu, sản phẩm của họ thường đắt và chất lượng kém.
Việc đánh thuế nhập khẩu cũng có những mặt trái khác. Các rào cản thương mại của đất nước làm cho dân chúng nước đó gặp khó khăn hơn vì hàng hóa nhập khẩu mà người tiêu dùng mong muốn (và nhà sản xuất cần cho quy trình sản xuất) trở nên đắt hơn hoặc thậm chí hoàn toàn không có. Không có các sản phẩm thay thế được sản xuất trong nước hoặc chất lượng kém hay không đáp ứng tiêu chuẩn. Ngoài ra, khả năng được bảo hộ chống lại hàng nhập khẩu nước ngoài làm cho các ngành công nghiệp trong nước phải vận động hành lang, hạn chế hơn nữa sự cạnh tranh trên các thị trường khác. Và cần bộ máy hành chính tốn kém mới quản lý được hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Vì tất cả những lý do này, các nhà kinh tế học hiện nay nói chung đều đồng ý rằng dù lợi ích tạm thời cho một số ít nhà sản xuất có là gì đi nữa thì thuế xuất khập khẩu và các rào cản thương mại khác đều là sai lầm (Butler 2021: 63–77).
Tại sao dân chúng bất đồng về thuế
Có rất nhiều bất đồng về thuế - cụ thể là thuế suất chung nên là bao nhiêu, cách thức và nguồn thu lấy từ đâu. Phần lớn những bất đồng này là do quan điểm khác nhau của người dân về bản chất và hiệu quả của chính phủ.
Đối với một số người, chính phủ chủ yếu là cơ quan nhân đạo, hướng đến mục tiêu tối đa hóa phúc lợi xã hội, và chủ yếu là phản ánh và đại diện cho các sở thích chung của xã hội. Họ coi thuế, nếu được thiết kế tốt, và ở mức độ phù hợp, là động lực tiềm tàng cho những điều tốt đẹp - một phương tiện cần thiết để tài trợ cho các dịch vụ công và đầu tư, và có nhiều mục đích hữu ích khác như giải quyết tình trạng bất bình đẳng và biến động kinh tế. Vì vậy, họ cho rằng chính phủ nên được tự do quyết định thuế suất chung và cách thức thu thuế, chẳng hạn như hoạt động nào nên bị đánh thuế nhiều hơn những hoạt động khác.
Tuy nhiên, những người khác lại không có thái độ lạc quan như thế. Họ có thể coi chính phủ, trong trường hợp tốt nhất, vừa không phải là cơ quan đại diện vừa bất tài, là con quái vật quan liêu đầy rẫy những động cơ lệch lạc và không có khả năng đáp ứng những điều người dân mong muốn với khoản chi không cao hoặc có hiệu quả. Hay tệ hơn, họ có thể coi chính phủ như một nhóm tinh hoa kiêu ngạo, trong đó có những chính trị gia tham nhũng và những quan chức lười biếng, tự nhận mình là người phục vụ lợi ích công cộng nhưng thực tế chỉ theo đuổi lợi ích riêng. Bằng chứng là, họ khẳng định rằng chính sách thuế khoá thường thiển cận, phi lý hoặc phản tác dụng, và có thể là nguồn gốc gây ra thiệt hại đáng kể về kinh tế và xã hội.
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi những người chỉ trích này tìm cách áp đặt giới hạn về cách thức và mức độ chính phủ có thể đánh thuế chúng ta. Muốn biết quan điểm của họ có đúng hay không, cần phải xem xét thực tế về việc thuế đánh vào lĩnh vực nào và tác động kinh tế và xã hội (thường không lường trước được) mà chúng gây ra.
Chú thích:
(1) Free rider – tức là người không đóng góp nhưng vẫn hưởng lợi – là một vấn đề phổ biến trong các dịch vụ công như quốc phòng - ND.
(2) Những biện pháp có tính sáng tạo nhằm tài trợ cho những thứ được coi là hàng hoá công, xin mời đọc Taylor (1992).
(3) Xin đọc Butler (2021: 63–77)
(4) Muốn tìm hiểu nền tảng của thuế đồng đều, xin mời đọc ‘Flat tax’, TaxEDU, Tax Foundation, undated (https://taxfoundation.org/taxedu/glossary/flat-tax/).
Nguồn: Eamonn Butler, “An Introduction to taxation”, The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch.