![[Đại cương về thuế] - Chương 2: Các loại thuế](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k250018.2_(1).png)
[Đại cương về thuế] - Chương 2: Các loại thuế
CHƯƠNG 2. CÁC LOẠI THUỀ
Thuế trực thu
Thuế được người ta phân thành thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế mà cá nhân hoặc tổ chức (chẳng hạn như công ty) nộp trực tiếp cho cơ quan thuế vụ. Ví dụ: thuế thu nhập, cổ tức, lãi vốn, đất đai, tài sản, thừa kế và tài sản ròng. Những loại thuế này không thể được chuyển cho người khác: nộp thuế là trách nhiệm của cá nhân hoặc tổ chức cụ thể.
Thuế thu nhập theo tỷ lệ và thuế lũy tiến. Nói chung, thuế trực thu được thiết kế để phản ánh khả năng nộp thuế của người nộp thuế. Ví dụ, những người có thu nhập cao hơn sẽ nộp thuế thu nhập cao hơn những người có thu nhập thấp hơn.
Nó vẫn đúng ngay cả trong trường hợp thuế theo tỷ lệ (hoặc “thuế cố định”), trong đó mọi người (hoặc những người có thu nhập trên một ngưỡng “tối thiểu”) đều nộp cùng một thuế suất biên (tức là cùng một tỷ lệ phần trăm thuế trên mỗi đô la tăng thêm mà họ kiếm được). Vì vậy, cả người có thu nhập thấp và cao đều có thể nộp cùng một thuế suất 10% trên mỗi đô la tăng thêm (“biên”) mà họ kiếm được. Nhưng, mặc dù thuế suất là như nhau cho cả hai bên, người có thu nhập cao hơn sẽ phải đóng tổng số tiền thuế cao hơn, đơn giản vì họ phải trả mức thuế 10% trên số tiền mà họ kiếm được nhiều hơn.
Tuy nhiên, nhiều khu vực áp dụng thuế lũy tiến đối với thu nhập. Có nghĩa là càng kiếm được nhiều tiền thì thuế suất biên phải trả cho mỗi đô la kiếm được càng cao. Do đó, người có thu nhập thấp có thể bị đánh thuế 10% cho mỗi đô la thu nhập vượt ngưỡng; người có thu nhập trung bình có thể bị đánh thuế 20%; và người có thu nhập cao có thể bị đánh thuế tới 30% cho mỗi đô la kiếm được thêm. Theo hệ thống lũy tiến như thế, những người có thu nhập cao nhất phải trả tổng số thuế cao hơn rất nhiều. Ví dụ, ở Anh và Hoa Kỳ, 1% người nộp thuế có thu nhập cao nhất đóng góp hơn một phần ba tổng thu thuế thu nhập quốc dân (Delestre và cộng sự, 2022; York, 2023).
Việc đánh thuế dựa trên khả năng chi trả là một trong những nguyên tắc chính của hầu hết các hệ thống thuế trên thế giới. Tuy nhiên, những người phản đối thuế suất lũy tiến cho rằng chúng làm giảm đáng kể động lực làm việc của những người có thu nhập cao, từ đó kìm hãm hoạt động kinh tế và ảnh hưởng đến thịnh vượng chung. Họ cũng cho rằng thuế suất lũy tiến khuyến khích các hành vi né tránh và trốn thuế – chẳng mang lại lợi ích gì cho hoạt động sản xuất.
Thuế theo thu nhập là biện pháp hiệu quả nhất hiện nay, được tính toán nhằm thu được sự đóng góp công bằng từ những người có khả năng chi trả cao nhất và tránh tạo gánh nặng lên đại đa số người dân.
US President Franklin D. Roosevelt (1882–1945)
Trong số các loại thuế trực thu khác, thì thuế doanh nghiệp có thể đánh vào thu nhập của công ty. Thuế tài sản có thể được đánh vào giá trị (hoặc giá trị cho thuê) đất đai hoặc tòa nhà. Thuế thừa kế được trả (những người thừa kế trả) trên bất động sản của người đã khuất. Và có thể có thuế tặng đánh vào tài sản được chuyển nhượng cho người khác trong lúc người tặng còn sống.
Thuế trực thu với thuế suất cố định. Tuy nhiên, một số loại thuế trực thu không dựa trên khả năng chi trả của người dân. Ví dụ, giấy phép lái xe có thể được đánh theo thuế suất cố định, hoặc dựa trên kích thước của xe, chứ không dựa trên tài sản hoặc thu nhập của chủ sở hữu.
Một ví dụ thú vị khác là thuế thân, thống nhất cho tất cả mọi người. Mặc dù được cho là một cách hợp lý để chi trả cho các dịch vụ mà mọi người sử dụng gần như ngang nhau (chẳng hạn như thu gom rác thải), thuế thân nhìn chung không được ưa chuộng (như trong cuộc Khởi nghĩa Nông dân) do gánh nặng tương đối lớn hơn mà chúng gây ra cho những người nghèo nhất.
Thuế gián thu
Thuế gián thu không đánh trực tiếp lên cá nhân hay tổ chức. Chúng được một người hoặc tổ chức nộp cho cơ quan chức năng, nhưng sau đó được chuyển lại cho người khác – những người cuối cùng phải gánh chịu khoản thuế này, thường là dưới hình thức giá cả cao hơn. Ví dụ như thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nhiên liệu, rượu và thuốc lá, và thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa nhập khẩu. Tất cả những khoản thuế này đều được các nhà sản xuất, thương nhân và nhà bán lẻ nộp cho chính quyền trước khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, chúng được chuyển cho khách hàng, toàn bộ hoặc một phần, trong giá hàng hóa mà họ mua. Tương tự, thuế bán lẻ do người bán lẻ thu và nộp khi hàng hóa được bán ra, nhưng cuối cùng lại do khách hàng chi trả.
(Mặc dù người sử dụng lao động đôi khi khấu trừ các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội và thuế thu nhập từ lương của người lao động, nhưng đây vẫn là thuế trực thu, vì chúng là thuế đánh vào từng người lao động, ngay cả khi - để thuận tiện cho việc thu thuế - chúng được người sử dụng lao động thu và nộp cho chính quyền.)
Các loại thuế gián thu. Thuế tiêu dùng là thuế gián thu, có thể dưới dạng thuế bán hàng chung chung (GST) đánh vào sản phẩm tiêu dùng, hoặc thuế giá trị gia tăng (VAT) đánh vào sản phẩm trong mỗi giai đoạn sản xuất. Thuế bán hàng là một ví dụ khác. Thuế này có thể được tính theo mức cố định trên giá của bất kỳ mặt hàng nào mà khách hàng mua, mặc dù đôi khi “hàng xa xỉ” (chẳng hạn như bữa ăn chế biến sẵn dùng tại nhà hàng) bị đánh thuế cao hơn “hàng thiết yếu” (chẳng hạn như thực phẩm sống mua trong siêu thị).
Thuế bán hàng (sales taxes) thường là thuế theo giá trị. Nghĩa là, chúng được đánh theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá hàng hóa và dịch vụ. Do đó, sản phẩm càng đắt tiền thì càng phải trả nhiều thuế hơn. Một hình thức khác của thuế tiêu dùng là thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là các loại thuế cụ thể: tức là chúng được đánh trên mỗi đơn vị hàng hóa và dịch vụ cụ thể, chứ không phải trên giá bán. Do đó, cùng một mức thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng cho một chai rượu vang, bất kể đó là loại Château Mouton-Rothschild hảo hạng hay loại rượu pha trộn rẻ tiền nhất được bán ở siêu thị.
Mục đích. Thuế gián thu có nhiều mục đích khác chứ không chỉ để tăng thu ngân sách. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt có thể được sử dụng nhằm tăng giá (và do đó, giảm nhu cầu) đối với hàng hóa được coi là có hại - có hại cho cá nhân (ví dụ: rượu, thuốc lá và cờ bạc, với khả năng gây nghiện) hoặc cho người khác (ví dụ: nhiên liệu hóa thạch, với tác động xấu tới môi trường).
Quy mô. Thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu thuế mà chính phủ nhiều nước thu được. Tại các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thuế gián thu chiếm khoảng một phần ba tổng số thuế thu được (OECD 2022). Tỷ lệ này đã đang tăng lên, một phần vì các nhà kinh tế ngày nay coi thuế tiêu dùng ít gây hại hơn so với thuế thu nhập và thuế doanh nghiệp.
Vấn đề luỹ thoái (regressive). Tuy nhiên, những người chỉ trích cho rằng thuế gián thu là mang bản chất luỹ thoái. Các loại thuế đặc thù như thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tỷ trọng cao hơn trong giá các sản phẩm giá rẻ mà các gia đình nghèo mua so với giá các sản phẩm đắt tiền mà người giàu mua. Tương tự, thuế nhập khẩu làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu cho tất cả các khách hàng, không phụ thuộc vào thu nhập. Ngoài ra, một số đối tượng chính của thuế nhập khẩu thường là các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm và quần áo: vì những mặt hàng này chiếm phần lớn ngân sách của các hộ gia đình nghèo, nên khoản thuế bổ sung sẽ tác động nặng nề nhất đến những người có khả năng chi trả thấp nhất.
Thuế bán hàng hóa và dịch vụ hoặc thuế giá trị gia tăng một lần nữa làm tăng giá thực phẩm, quần áo, nhiên liệu, nhà ở, giao thông vận tải và các mặt hàng thiết yếu khác, gây ảnh hưởng nặng nề nhất đến các gia đình nghèo. Đây là lý do vì sao nhiều loại thuế tiêu dùng được đánh với các thuế suất khác nhau (ví dụ như đã đề cập, đối với “hàng thiết yếu” hoặc “hàng xa xỉ”) để bù đắp cho tác động không công bằng này. Thật không may là, nó lại làm cho việc thu thuế càng phức tạp thêm, khiến nó trở thành tùy tiện và khó thực thi hơn. Ví dụ, ở Anh, thuế suất VAT bằng 0 đối với quần áo trẻ em, được xác định theo kích cỡ, đồng nghĩa với việc người lớn nhỏ con có thể mua quần áo miễn thuế trong khi gia đình có con lớn phải trả thuế. Và chính phủ Anh bị chế giễu khi một chiếc bánh lạnh ngắt ở cửa hàng (được phân loại là “thiết yếu”) lại không phải chịu thuế, nhưng cũng chiếc bánh ấy, còn nóng mua ở cửa hàng bán đồ ăn mang về (được phân loại là “xa xỉ”) thì lại phải chịu thuế (Quinn 2012).
Bản chất bị che giấu. Những người chỉ trích cũng phàn nàn rằng người nộp thuế khó nhìn thấy các khoản thuế gián thu. Ví dụ, người mua ô tô nhập khẩu - và ngay cả người bán lẻ ô tô mà người đó mua - có lẽ không biết số tiền thuế đã được trả cho chiếc xe đó dưới dạng thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt. Các cửa hàng thậm chí có thể không ghi rõ thuế bán hàng trên phiếu hàng hóa. Còn những người chỉ trích thì nói rằng, một trong những nguyên tắc quan trọng của thuế là mọi người phải biết và minh bạch.
Có khả năng bị chính trị hóa. Cả thuế trực thu và thuế gián thu đều có thể được sử dụng nhằm phục vụ chính sách ưu tiên ưu đãi một số ngành và hoạt động nhất định hơn là những ngành và hoạt động khác. Tuy nhiên, thuế gián thu được dùng phổ biến hơn vì khó nhận ra hơn, có thể giúp che giấu chính sách ưu tiên ưu đãi.
Do đó, ví dụ, chính phủ muốn thúc đẩy việc làm có thể đánh thuế tiêu dùng thấp hơn đối với các sản phẩm thuộc các ngành thâm dụng lao động (ví dụ: nông nghiệp, dịch vụ ăn uống và dịch vụ), trong khi tăng thuế đối với các sản phẩm thâm dụng vốn như ô tô, viễn thông và năng lượng. Tuy nhiên, các nhà phê bình chỉ ra rằng làm như thế là bóp méo hoạt động bình thường của nền kinh tế, thu hút nguồn lực vào các lĩnh vực có thể mang lại ít giá trị hơn cho người tiêu dùng. Tệ hơn nữa, thuế có thể được sử dụng vì mục đích chính trị nhằm hỗ trợ những người ủng hộ chính phủ: ví dụ, chính phủ có nền tảng vững chắc ở khu vực nông thôn có thể chọn giảm thuế đối với các ngành công nghiệp ở nông thôn vì lợi ích của cử tri ở đó.
Thuế chuyển nhượng
Thuế chuyển nhượng là thuế đánh vào quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu tài sản được chuyển nhượng từ cá nhân hoặc tổ chức này sang cá nhân hoặc tổ chức khác. Theo một nghĩa nào đó, thuế bán hàng là một loại thuế chuyển nhượng, vì bất kỳ hoạt động bán hàng nào cũng là chuyển nhượng tài sản. Nhưng nói chung, thuật ngữ này dành riêng cho việc chuyển nhượng tài sản phải được đăng ký chính thức hoặc khai báo theo một cách nào đó, chẳng hạn như đất đai, nhà cửa, cổ phiếu hoặc trái phiếu. Ví dụ như thuế trước bạ khi chuyển nhượng đất đai hoặc chứng khoán, thuế thừa kế áp dụng cho việc chuyển giao tài sản của người đã chết, hoặc thuế quà tặng đối với các khoản chuyển giao cho bạn bè và gia đình được thực hiện khi còn sống. Thuế suất thường dựa trên giá trị và loại tài sản.
Trực thu hay gián thu? Người ta đã tranh luận về việc thuế chuyển nhượng nên được coi là thuế trực thu hay gián thu. Trong vụ án Knowlton kiện Moore (1900), Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã thụ lý vụ án mà người nộp thuế lập luận rằng Thuế Tài sản là loại thuế trực thu đánh vào người thừa kế, chứ không phải là thuế gián thu đánh vào tài sản. (Vì đây là thuế lũy tiến, nên việc tính thuế dựa trên tổng giá trị của tài sản sẽ tạo ra khoản thuế lớn hơn so với việc tính thuế trên các khoản thừa kế nhỏ hơn mà mỗi người thụ hưởng được nhận.) Tòa án phán quyết rằng Thuế bất động sản là một loại thuế gián thu đánh vào việc chuyển nhượng tài sản chứ không phải là thuế đánh vào chính bất động sản.
Thuế Tobin. Một số người ủng hộ thuế chuyển nhượng không chỉ đối với việc trao đổi hàng hóa vật chất mà còn đối với các giao dịch tài chính – thuế giao dịch tài chính (FTT). Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883–1946) cho rằng loại thuế này sẽ làm dịu các bong bóng đầu cơ (ví dụ Phố Wall những năm 1920) bằng cách làm cho việc mua bán tài sản trở nên tốn kém hơn. Ông lập luận rằng khoản thuế này sẽ ngăn cản việc mua bán khối lượng lớn với hy vọng đầu cơ kiếm lời trong ngắn hạn, trong khi các giao dịch mua bán tập trung vào việc đảm bảo giá trị dài hạn sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể (Burman và cộng sự, 2016).
Trong một buổi diễn thuyết năm 1972, nhà kinh tế học người Mỹ, Khôi nguyên Nobel James Tobin (1918–2002) đề xuất một loại thuế tương tự (hay còn gọi là “Thuế Tobin” như là các loại thuế giao dịch tài chính - FTTs – mà mọi người đều biết) đánh vào việc chuyển đổi tiền tệ. Mục đích là để bảo vệ hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods năm 1944 khỏi các cuộc tấn công mang tính đầu cơ vào những đồng tiền yếu1. Hiện nay mục đích này đã trở thành lỗi thời, vì các hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự động điều chỉnh theo thực tế thị trường. Gần đây hơn, vào năm 2011, Liên minh Châu Âu (EU) thúc đẩy một loại FTT áp dụng trên toàn EU đối với tất cả các giao dịch tài chính như biện pháp tạo doanh thu cho Ủy ban Châu Âu (siêu quốc gia) và giảm sự phụ thuộc của họ vào các chính phủ thành viên EU2.
Những người chỉ trích. Mỗi hình thức thuế chuyển nhượng đều có người chỉ trích. Ví dụ, một số người nói rằng thuế thừa kế - đánh vào lúc người ta ở trong tình trạng tồi tệ nhất – ngay sau khi một người bạn hoặc người thân qua đời. Họ cho rằng nó trái ngược với bản năng tự nhiên của con người là chu cấp cho gia đình của mình. Họ lưu ý rằng mọi người sẽ làm mọi cách để né thuế - thiết lập các quỹ tín thác phức tạp hoặc chuyển tài sản của họ sang các tài sản chịu thuế thấp hơn nhưng có lẽ ít hiệu quả hơn. Họ nói rằng nếu mọi người có thể đầu tư một cách tự do thay vì bị buộc phải áp dụng những biện pháp như vậy, thì sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho họ và cho nền kinh tế nói chung (xem, ví dụ, Bracewell-Milnes 1995b).
Những người chỉ trích cho rằng thuế đánh vào đất đai và chuyển nhượng bất động sản làm cho việc chuyển nhà trở thành tốn kém hơn. Vì vậy, những người lớn tuổi, mà con cái đã đi nơi khác, vẫn ở trong những ngôi nhà quá lớn so với nhu cầu của họ, chứ không thu hẹp quy mô và giải phóng không gian cho những gia đình cần. Sự trì trệ của thị trường như thế cũng làm cho người dân bị mắc kẹt trong những ngôi nhà ở xa nơi làm việc, làm tăng thời gian di chuyển, chi phí và ô nhiễm. Và khoản thuế này cũng khuyến khích người ta trốn thuế - ví dụ, người bán đồng hạ giá bất động sản, nhưng lại tăng giá đồ đạc, đồ nội thất, đồ trang trí sân vườn hoặc các mặt hàng không chịu thuế khác3.
Những người phê phán còn cho rằng FTT đã bỏ qua thực tế là đầu cơ mang lại lợi nhuận. Những người đầu cơ thường có kiến thức sâu sắc nhất về từng thị trường riêng lẻ và liệu giá cả trên thị trường đó là quá cao hay quá thấp. Vì vậy, hoạt động mua bán của họ giúp đẩy nhanh quá trình điều chỉnh theo thực tế ngay tại từng thời điểm, làm cho thị trường hiệu quả hơn và do đó, góp phần tăng năng suất của toàn bộ nền kinh tế. Ngay cả khi thuế suất đánh vào mỗi giao dịch là nhỏ, việc áp dụng cho hàng triệu giao dịch tài chính diễn ra mỗi ngày vẫn làm cho hoạt động kinh tế bị méo mó một cách nghiêm trọng.
Thế định khoản
Thuế định khoản (hypothecated tax) là loại thuế mà nguồn thu thu được sẽ được “gắn đích” hoặc “khoanh vùng riêng” cho một mục đích cụ thể, chứ không chuyển vào quỹ ngân sách chung của chính phủ. Một số loại phí môn bài đã nói bên trên có thể được xem là ví dụ cho loại thuế này. Trong lịch sử từng có thuế tàu (ship money) - đánh vào các cảng biển ở Anh hồi thế kỷ XVII, dùng để tài trợ cho Hải quân Hoàng gia.
Trong thời hiện đại đấy có thể là thuế bảo hiểm xã hội, được dùng để cung cấp các dịch vụ như lương hưu và chăm sóc y tế; thuế xe cộ và nhiên liệu, dùng để duy tu và bảo trì hệ thống giao thông đường bộ; và thuế sân bay, được sử dụng để duy trì cơ sở hạ tầng của các sân bay. Mức độ định khoản của thuế có thể mạnh hoặc yếu. Định khoản mạnh là khi toàn bộ nguồn thu được dành riêng cho dịch vụ được chỉ định, hoặc khi dịch vụ đó chỉ được tài trợ duy nhất bằng nguồn thu từ loại thuế ấy. Điều này phù hợp với các dịch vụ như bảo hiểm xã hội dành cho y tế hoặc lương hưu - phần lớn lợi ích thu được thuộc về chính người đóng thuế. Định khoản yếu là khi không phải toàn bộ nguồn thu đều được chuyển đến dịch vụ đã được chỉ định, hoặc dịch vụ đó còn được tài trợ thêm từ các nguồn khác. Cách tiếp cận này có thể phù hợp trong những lĩnh vực phục vụ lợi ích công cộng rộng lớn hơn, chẳng hạn như giáo dục.
Phê phán. Thuế định khoản mang lại những lợi ích rõ ràng. Người dân biết rằng số tiền họ đóng sẽ thực sự được chuyển đến dịch vụ được chỉ định, và sẽ không được sử dụng cho những mục đích khác, thuế định khản có thể được người dân ủng hộ và tin tưởng hơn so với thuế khoá nói chung.
Nhưng liệu công chúng có thực sự chắc chắn như vậy không? Ví dụ, thuế bảo hiểm xã hội có thể không được phân bổ cho mục đích bảo hiểm xã hội mà trên thực tế có thể không khác gì thuế thu nhập, cả hai đều được đưa vào ngân sách chung của chính phủ. Tuy nhiên, các chính trị gia cảm thấy có lợi khi tuyên bố hai loại thuế này là tách biệt vì thuế thu nhập dường như là ít hơn. Cũng có câu hỏi về việc người dân nhận được gì từ khoản thuế định khoản mà mình đã đóng. Khoản thuế này được chi tiêu rộng rãi (ví dụ, như trong lĩnh vực giáo dục: chi cho toàn bộ các trường mẫu giáo, trường phổ thông, cao đẳng và giáo dục dành cho người lớn) hay hạn hẹp (ví dụ, chỉ tài trợ cho trường phổ thông)?
Nói chung, chúng ta kỳ vọng rằng dân chúng ủng hộ thuế định khoản mạnh và hạn hẹp - doanh thu chỉ được chuyển đến một dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng rõ ràng liệu điều đó có đúng hay không.
Phê phán khác là chi tiêu công cho bất kỳ dịch vụ cụ thể nào cũng nên được xác định dựa trên nhu cầu, chứ không phải số tiền có thể huy động được từ dịch vụ đó. Hơn nữa, nhiều loại thuế sẽ tăng thêm nguồn thu khi thương mại mở rộng và thu nhập tăng, nhưng chính trong thời kỳ suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng, lại là lúc các dịch vụ công như bảo hiểm xã hội trở thành cần thiết nhất.
Và thu nhập từ thuế có thể không đáp ứng được nhu cầu, cũng như chi tiêu, nói chung. Ví dụ, thuế đánh vào xe cơ giới có thể lớn hơn gấp nhiều lần số tiền chi cho bảo trì đường bộ, hoặc có thể được biện minh rằng xe cơ giới gây thiệt hại cho môi trường (xem, ví dụ, Ebbs 2014). Chúng ta cũng không kỳ vọng rằng thuế đánh vào thuốc lá chỉ được chi cho quá trình điều trị các vấn đề sức khỏe liên quan của người hút thuốc. Loại thuế này có thể và thường thu được nhiều hơn mức cần thiết cho các dịch vụ đó. Mặc dù các chính trị gia có thể muốn cho rằng thuế phần lớn là thuế định khoản, nhưng quan tâm thực sự của họ là được chi tiêu một cách tự do nhất.
Chú thích:
(1) Đề xuất này sau đó được công bố trong Tobin (1978)
(2) Muốn tìm hiểu những lời chỉ trích đề xuất của EU, xin mời đọc Worstall (2011)
(3) Muốn tìm hiểu thiệt hại do thuế đánh vào tài sản gây ra, mời đọc Southwood (2017).
Nguồn: Eamonn Butler, “An Introduction to taxation”, The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch.