[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 3)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 3)

Kinh tế học về tội ác do cấm đoán gây ra

Cấm đoán tạo ra cơ hội tìm kiếm lợi nhuận mới cho cả những tội phạm hình sự và những người không phải là tội phạm hình sự. Đối với những người đã gia nhập giới tội phạm, cấm đoán cung cấp cho họ những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận mới và cao hơn, có thể làm gia tăng số tội ác mà họ thực hiện hoặc chuyển sang màu những hình thức tội ác mới. Kẻ cướp có thể trở thành người bán rượu lậu, người cho vay nặng lãi có thể tham gia cả vào lĩnh vực buôn bán ma túy. Ví dụ, trong giai đoạn Cấm Rượu, Al Capone mở rộng kinh doanh từ cờ bạc và mại dâm sang buôn rượu lậu. Những cơ hội tìm lợi nhuận mới và mở rộng cũng sẽ đưa những tay chơi mới vào hoạt động tội phạm, những kẻ mới bước vào nghề này thường xuất thân từ những người tiêu thụ sản phẩm bị cấm.

Thực thi các biện pháp cấm đoán sẽ làm tăng giá sản phẩm bất hợp pháp, ngược lại sẽ có ảnh hưởng cực kì bất lợi đối với người tiêu thụ các sản phẩm bị cấm. Một số người tiêu thụ sẽ phản ứng với giá cao hơn bằng cách giảm hoặc không tiêu thụ các sản phẩm bị cấm nữa, nhưng một số khác thì không làm thể Những người tiêu thụ đã quen hay đã nghiện một món hàng đặc biệt nào đó thì sẽ vẫn ở trong thị trường này. Họ có thể được xếp vào nhóm những người có nhu cầu không co giãn đối món hàng bị cấm khi giá của nó còn nằm trong phạm vi phù hợp. Do đó, hậu quả của cấm đoán là những người tiêu thụ này sẽ tiêu thụ ít hơn tất cả các hàng hoá khác (thực phẩm, quần áo, chỗ ở, chăm sóc y tế).

Ví dụ, một người sử dụng heroin phản ứng với mức tăng giá 1.000% bằng cách giảm tiêu thụ 50% (Hình 7, trang 178). Phản ứng không co dãn như thế kéo theo việc giảm tiêu thụ tất cả các loại hàng hóa khác, điều đó được thể hiện bằng sự thay đổi đường ngân sách trong Hình 8 (trang 178).

Giới hạn ngân sách ban đầu của người tiêu thụ trong Hình 8 đã được xác định trước bởi sự lựa chọn giữa lao động và nghỉ ngơi. Nhưng sự thỏa hiệp giữa lao động và nghỉ ngơi còn bị ảnh hưởng bởi cấm đoán theo cách phi truyền thống. Giá heroine tăng quá cao trong giai đoạn cấm đoán tạo ra một giới hạn ngân sách mới. Đối với người có nhu cầu heroine không thể co dãn thì cấm đoán cũng chẳng khác gì nạn đói làm tăng giá lương thực lên mấy trăm phần trăm. Giá các sản phẩm bị cấm tăng sẽ hoặc không ảnh hưởng tới mức lương danh nghĩa, do đó mức lương thực tế (sức mua) giảm. Mức lương thực tế giảm thường làm tăng thời gian nghỉ ngơi (chẳng vui vẻ gì đối với người nghiện heroine), nhưng ở đây chúng ta có thể nghĩ rằng thời gian làm việc sẽ nhiều hơn hoặc họ sẽ chuyển sang công việc có mức lương cao hơn vì rủi ro lớn hơn (ví dụ, tội ác). Dù thế nào thì người sử dụng heroine cũng bị thiệt và căng thẳng hơn.

Trên Hình 9 (trang 179), thu nhập từ hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp được so sánh với mức độ rủi ro từ những hoạt động tội phạm do người sử dụng heroine thực hiện. Thu nhập hợp pháp (sức mua) được thể hiện trên trục tung. Thu nhập bất hợp pháp được thể hiện bằng đường thu nhập dự kiến theo trục tung. Reuter và cộng sự (1990) đã thực hiện một công trình nghiên cứu về những người buôn bán ma túy ở Washington D.C., kết quả chỉ ra rằng những người buôn bán này chấp nhận rủi ro để kiếm tiền. Họ phát hiện ra rằng những người bán ma túy trên đường phố chịu rủi ro cao, trong khi “lợi nhuận” thì khá khiêm tốn.


Các đường bàng quan, tức là những đường biểu thị tội ác (rủi ro) là cái xấu được chồng lên trong đô thị. Trong trường hợp không có những biện pháp cấm đoán, người tiêu dùng có thu nhập cao sẽ không muốn phạm tội nhằm tránh rủi ro vì họ sợ mất tự do, mất thu nhập cả trong hiện tại lẫn tương lai, mất danh tiếng... Ảnh hưởng tiêu cực của cấm đoán đối với đồng lương thực tế của người sử dụng heroine sẽ khuyến khích họ trở thành tội phạm khi chi phí cơ hội của những hoạt động bất hợp pháp của họ giảm.

Với mức thu nhập ban đầu, cá nhân ít hoặc không tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Nhưng khi giả heroine tăng thì thu nhập thực tế sẽ giảm. Ở mức thu nhập thấp hơn này, tỉ lệ của thu nhập bất hợp pháp sẽ gia tăng. Các cá nhân sẽ tham gia vào nhiều hoạt động phạm tội hơn. Do đó, cấm đoán sẽ làm cho những người chưa phạm tội tham gia vào những hoạt động bã hợp pháp như buôn bán ma túy hoặc trộm cướp.

Cung của các hoạt động tội phạm của những người sử dụng ma túy chưa phạm tội có thể được coi như là hàm số của mức độ khắt khe của việc thực thi các biện pháp cấm đoán. Mức độ thực thi cấm đoán càng khắt khe thì giá các sản phẩm bị cấm đoán càng tăng và do đó mà có ảnh hưởng tiêu cực tới thu nhập của người nghiện và người sử dụng ma túy thường xuyên. Thu nhập thực tế giảm do cấm đoán gây ra làm cho thu nhập bất hợp pháp trở nên hấp dẫn hơn. Do đó, giá heroine cao hơn gây ra nhiều hoạt động tội phạm hơn. George F. Brown và Lester P. Silverman (1974) đã đưa ra bằng chứng của mối quan hệ này trong ngắn hạn. Thay đổi mức độ nghiêm khắc của các biện pháp thực thi có thể còn ảnh hưởng đến loại phạm tội. Ví dụ, dành nhiều nguồn lực cho việc thực thi các biện pháp cấm đoán thì những tội phạm về tài sản như trộm cắp trở thành ít rủi ro hơn và do đó sẽ gia tăng về số lượng. Benson và cộng sự (1990) đã chỉ ra rằng những nỗ lực được tăng cường nhằm ngăn chặn các loại ma túy bất hợp pháp có thể làm giảm những nỗ lực nhằm ngăn chặn tội phạm về tài sản và do đó làm gia tăng những loại tội phạm này. 

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường