![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 1)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.21_(1).jpg)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 1)
Một yếu tố khác góp phần làm gia tăng những hậu quả khi sử dụng cần sa đối với sức khỏe là sự gia tăng hiệu lực (potency) của nó trong mấy năm gần đây.
– Văn phòng phòng chống lạm dụng thuốc của Nhà Trắng – 1984
Những biện pháp phòng chống ma túy đã tạo ra quá trình khám phá hoàn toàn vô ích về hiệu lực của ma túy. Trước những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận do những biện pháp cấm đoán tạo ra, các chủ doanh nghiệp trên thị trường chợ đen cũng phản ứng tương tự như các chủ doanh nghiệp trên thị trường hợp pháp. Một mặt, cả trên thị trường hợp pháp và bất hợp pháp các doanh nhân đều tìm cách cung cấp số lượng sản phẩm mang lại nhuận tối đa. Mặt khác, động cơ lợi nhuận cũng khuyến khích các chủ doanh nghiệp thay đổi kỹ thuật sản xuất, chất lượng sản phẩm và bản thân sản phẩm.
Các lực lượng thị trường thiết lập nên một số tiêu chuẩn công nghiệp nhất định, thí dụ như mười hai ounce trong một lon soda hay mỗi gói giấy vệ sinh có bốn cuộn giấy. Mỗi dòng sản phẩm trên thị trường, dù là bữa ăn sáng hay bóng đèn điện thì cũng đều nhắm tới một mức độ đa dạng hóa sản phẩm (tính đa dạng) hiệu quả nhất, giá thành sản xuất thấp nhất và chất lượng sản phẩm tối ưu nhất. Trên thị trường chợ đen cũng có xu hướng tương tự. Nhưng, trên thị trường hàng hóa bị cấm đoán bao giờ người tiêu dùng cũng có ít lựa chọn hơn, nhưng sản phẩm lại thay đổi thường xuyên hơn.
Sau khi những biện pháp cấm đoán được đem ra thi hành, hiệu lực của của ma túy, cocaine, rượu và cần sa đã tăng lên đáng kể. Trong thế kỉ trước, ở Mĩ, thuốc phiện hầu như đã bị morphine thế chỗ và sau đó, heroin thay thế cho morphine. Coca-Cola ban đầu chỉ chứa một ít cocaine. Hiện nay cocaine được bán dưới dạng bột có tác dụng rất mạnh hoặc dưới dạng tinh thể nồng độ cao gọi là “crack”. Trong giai đoạn Cấm Rượu, lượng tiêu thụ bia giảm mạnh, nhưng tiêu thụ rượu tự nấu và rượu lậu lại gia tăng. Sau khi luật thuế “cấm đoán” được ban hành vào năm 1937, khả năng gây nghiện và tác động của cần sa đã tăng mấy trăm phần trăm. Ma túy tổng hợp và các ma túy được pha trộn với nhau, ví dụ như “speedball” (hỗn hợp của heroin và cocaine) hay “Moonshot” (hỗn hợp cocaine và PCP), đã được đưa vào sử dụng.
Kể từ năm 1968, tức là từ khi Simon Rottenberg công bố bài báo có tính gợi mở nhan đề: “Phân phối bí mật heroin: Phát hiện và ngăn chặn”, các nhà kinh tế học đã tiến hành nghiên cứu nhiều khía cạnh của thị trường ma túy bất hợp pháp, trong đó có việc cấm rượu, vấn đề nghiện ngập và chính sách công đối với hiện tượng nghiện ngập và thị trường chợ đen. Rottenberg đã khảo sát một số giả thuyết về sự thay đổi hiệu lực của ma túy nhưng lại kết luận răng phân tích của ông không trả lời được câu hỏi về sự thay đổi hiệu lực của ma túy. “Tương tự như giải thích vì sao xe ô tô Falcon, cũng như Continental, đều được sản xuất, nhưng không giải thích được vì sao thị phần của Falcon tăng lên mà thị phần của Continental lại giảm” (Rottenberg, 1968, 83).
Những câu hỏi về hiệu lực của ma túy vẫn chưa được trả lời và chủ yếu chưa được nghiên cứu tỉ mỉ mặc dù nó có ý nghĩa đối với chính sách công, đối với hiệu quả của việc thực thi pháp luật và nghiện ngập, cũng như sức khỏe của người sử dụng ma túy bất hợp pháp. Những câu hỏi về hiệu lực của ma túy và chất lượng sản phẩm còn có ý quan trọng đối với những công trình nghiên cứu lí thuyết cơ bản và nghiên cứu thực nghiệm về cấm đoán và những chính sách công khác. Crawford và cộng sự (1988) và Reuter, Crawford, và Cave (1988) (một cách gián tiếp) phát hiện ra rằng khi việc thực thi luật lệ được tăng cường thì các chủ doanh nghiệp sẽ chuyển sang buôn lậu các chất ma túy có hiệu lực cao hơn.
Ma túy có hiệu lực cao hơn làm đã giảm hiệu quả của những biện pháp thực thi pháp luật vì chỉ cần số lượng nhỏ cũng đạt hiệu quả như trước. Các loại ma túy có hiệu lực cao hơn được cho là nguy hiểm hơn và tạo ra nguy cơ lớn hơn đối với sức khỏe của người sử dụng, nhưng thực ra sự khác biệt lớn về hiệu lực của sản phẩm tạo ra nguy cơ lớn hơn cho người sử dụng. Các loại ma túy có hiệu lực cao hơn cũng được cho là dễ gây nghiện hơn. Trên thị trường chợ đen, hiệu lực của sản phẩm là không cố định, người tiêu dùng có ít thông tin hơn về hiệu lực và các thành phần bổ sung và các nhà sản xuất không chịu trách nhiệm về mặt pháp lí mà các công ty dược phẩm phải chịu. Trong một nghiên cứu gần đây về việc tái hợp pháp hóa ma túy, James Ostrowski (1989, 47) tuyên bố rằng 80% trong số 3.000 trường hợp tử vong mỗi năm do sử dụng heroin và cocaine là kết quả của thị trường bất hợp pháp chứ không phải bản thân việc sử dụng ma túy. (Xem thêm Viện Nghiên cứu Quốc gia về Lạm dụng Ma túy 1981-84).
Điều gì đã làm cho hiệu lực của ma túy sau khi bị cấm gia tăng một cách ghê gớm như thế? Những thay đổi công nghệ ngoại sinh và thị hiếu người tiêu dùng thay đổi có thể mang đến cho chúng ta lời giải thích. Ví dụ, trên Hình 4, thị trường ma túy đã được chia thành thị trường ma túy hiệu lực cao và thị trường hiệu lực thấp. Nếu thay đổi công nghệ làm giảm giá thành túy có hiệu lực cao thì đường cung sẽ dịch về bên phải, sự dịch chuyển này làm giá giảm và tăng lượng cầu. Những thay đổi như thế trên thị trường ma túy có hiệu lực cao sẽ dẫn đến giảm cầu về ma túy có hiệu lực thấp. Những sự kiện này có thể giải thích kết quả tương tự mà người ta quan sát được khi áp dụng những biện pháp cấm đoán.
Thay đổi công nghệ thường diễn ra sau khi những biện pháp cấm đoán được ban hành, nhưng đấy thường không phải là công nghệ mới mà là áp dụng theo cách khác công nghệ hiện có (xem A. D. Little 1967).
Trải nghiệm về cấm đoán, đặc biệt là Luật cấm rượu, dường như bác bỏ khả năng sự thay đổi trong thị hiếu của người tiêu dùng là nguyên nhân của sự gia tăng hiệu lực ma túy. Sau khi Luật cấm rượu được bãi bỏ, những xu hướng tiêu thụ trước khi có Luật cấm rượu cho cả thị trường rượu mạnh và rượu nhẹ đã xuất hiện trở lại. Dường như sự thay đổi mạnh mẽ hiệu lực của các loại ma túy bị cấm đoán có liên quan trực tiếp tới chính những biện pháp cấm đoán. Sự sụt giảm hiệu lực trung bình theo thời gian của các loại ma túy hợp pháp, ví dụ như cà phê, nicotine, và rượu, đều củng cố giả thuyết này (Ippolitio, Murphi và Sant 1979).
Lời giải thích về hiệu lực cao được đưa ra ở đây dựa rất nhiều vào hiệu quả mà những biện pháp cấm đoán gây ra đối với giá tương đối của cùng loại ma túy với hiệu lực khác nhau, giá cả đối của các loại ma túy khác nhau và động cơ cách tân các tương loại ma túy mới. Cơ chế trừng phạt, mức độ thi hành, và động cơ của cán bộ thực thi pháp luật sẽ được nghiên cứu sau đây như là nguyên nhân dẫn đến những loại ma túy có hiệu lực cao và nguy hiểm hơn.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition