![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 2: Nguồn gốc của cấm đoán (Phần 5)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.13_(1).png)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 2: Nguồn gốc của cấm đoán (Phần 5)
CẤM ĐOÁN MA TÚY TRÊN TOÀN QUỐC
Luật cấm ma túy trên toàn quốc được áp dụng trước Luật cấm rượu và vẫn còn tiếp tục có hiệu lực cho đến ngày nay. Luật cấm này có một số nhân tố chung quan trọng với cấm đoán rượu - sự ủng hộ của phong trào Tin lành theo phái Phúc âm và phong trào Tiến bộ, sự sốt ruột của mọi người trước tiến triển của những hành động nhằm chống lại việc lạm dụng ma túy, thái độ kì thị đối với những nhóm người nhập cư thiểu số, hậu quả không lường trước và không nhận thức được của chính sách can thiệp của chính phủ và cơ hội do Thế chiến I tạo ra. Cấm ma túy còn tạo ra một số bất đồng quan trọng trong liên minh ủng hộ những biện pháp cấm đoán. Bất đồng quan trọng nhất là vai trò của ngành y và ngành dược là những ngành sử dụng việc kiểm soát ma túy như một thứ phương tiện đoàn kết và củng cố nghề nghiệp của họ thành nhóm lợi ích đầy sức mạnh. Như David Musto nhận xét: “Ngành y và dược đang trong giai đoạn hoạt động tích cực để hình thành tổ chức nghề nghiệp khi họ bị lôi cuốn vào vấn đề kiểm soát ma túy... Những cuộc đấu tranh quyết liệt cho địa vị nghề nghiệp và sự thống nhất của tổ chức đã có ảnh hưởng đối với sự phát triển và hình thức cuối cùng của luật pháp phòng chống ma túy” (1987, 13). Các chính khách cũng có vai trò tích cực trong việc kiểm soát ma túy. Theo Arnold Taylor (1969) thì việc kiểm soát ma túy đã được sử dụng nhằm tạo ảnh hưởng đối với quan hệ với Trung Quốc. Và cuối cùng, các nhà quản lí đã giúp biến vai trò lập qui do liên minh này nắm thành luật cấm do bộ máy quản lí liên bang điều hành. Luật cấm ma túy tồn tại được lâu là vì khác với dân uống rượu, người sử dụng ma túy bao giờ cũng chỉ là một nhóm nhỏ mà thôi.
Vấn đề ma túy
Vật liệu thô để sản xuất ma túy – thuốc phiện và lá cây coca trước khi đưa vào Mĩ, đã được sử dụng trong các nền văn hóa ở châu Á và Nam Mĩ suốt hàng thế kỉ rồi. Những phát minh và sáng chế trong thế kỉ XIX như morphine (1803), ống tiêm dưới da, cocaine, chloral hydrate (1868), và heroin (1898), đã làm gia tăng đáng kể việc sử dụng và ứng dụng các chất ma túy. Ban đầu, những sáng chế này đã nâng cao uy tín của ngành công nghiệp dược, nâng cao khả năng chữa bệnh và làm giảm đau của ngành tế. Cần phải nhớ rằng nghề y lúc đó vẫn còn dựa vào những việc như trích máu, cao dán làm rộp da và thủy ngân. Cần phải nhớ thêm rằng ngoài việc giảm đau (mãi đến năm 1899 aspirin mới được bán rộng rãi), ma túy còn là chất gây mê và chữa bệnh. Courtwright (1982) nói rằng y khoa là nguồn gây nghiện thuốc phiện quan trọng nhất.
Chính quyền thường viện dẫn Nội Chiến để giải thích gia tăng số người nghiện ma túy ở Mĩ. Trong thời gian chiến tranh, nhiều binh sĩ, cả miền Bắc lẫn miền Nam, đã trở thành những người nghiện ma túy. Trong khi nhiều nhà sử học đánh giá thấp vai trò của Nội Chiến thì Courtwright (1982, 55) nói rằng chỉ riêng quân đội miền Bắc đã được phát 10.000.000 liều thuốc phiện và khoảng 80 tấn bột thuốc phiện và phụ gia. Nhưng các số liệu thống kê cũng cho thấy rằng việc tiêu thụ thuốc phiện đã gia tăng ngay từ những năm 1840.
Phong trào cấm rượu đã vô tình có vai trò quan trọng trong việc làm lan truyền nạn nghiện ma túy. Không nghi ngờ gì rằng thiếu nguồn cung cấp rượu và những điều nhục nhã mà người ta qui cho nó đã khuyến khích việc dùng ma túy thay cho rượu, đấy cũng là điều đã xảy ra vào giữa thế kỉ XIX. Tiến sĩ F. E. Oliver (1872) nói về vấn đề này bằng một đoạn văn dài như sau:
Chúng ta không đề nghị xem xét câu hỏi: Những biện pháp cấm rượu đã dẫn đến việc nhiều người sử dụng ma túy đến mức nào. Nhưng đây là sự kiện quan trọng, cả ở Anh lẫn ở nước ta, phong trào kiêng cữ rượu hoàn toàn hầu như ngay lập tức đã kéo theo sự gia tăng tiêu thụ ma túy. Năm năm sau khi phong trào này bắt đầu ở Anh, lượng thuốc phiện nhập khẩu hằng năm đã tăng lên hơn hai lần; và trong giai đoạn từ 1840 đến 1850, ngay sau khi chủ nghĩa bài rượu trở thành sự kiện được xác nhận thì số lượng thuốc phiện nhập khẩu đã phình ra gấp 3,5 lần, tiến sĩ Calkins nói như thế; còn khi giá tăng thêm 50% thì tiến sĩ Stille nói rằng “thói quen nhai thuốc phiện đã trở nên rất phổ biến ở Anh, nhất là từ khi do ảnh hưởng lối sống của những xã hội hoàn toàn kiêng cữ rượu mà nhiều người đã bỏ uống rượu, mà lại chỉ căn cứ vào lợi ích của xã hội chứ không phải căn cứ vào uy tín của tôn giáo, buộc người ta phải tiết chế trong tất cả mọi việc, cả trong ăn uống, rượu chè hay thuốc phiện.” Ở những nước khác, chúng ta thấy rằng do nóng nực và luật lệ tôn giáo hạn chế uống rượu, người dân ở đấy được hướng dẫn tìm vui bằng thuốc phiện. Morewood, trong tác phẩm có tính bao quát với nhan đề Lịch sử của rượu (History of Inebriating Liquors) tuyên bố rằng người Hồi giáo bắt đầu sử dụng thuốc phiện và các chất gây hưng phấn khác từ khi nhà Tiên tri cấm uống rượu vang. Lời tuyên bố này phù hợp với kết quả quan sát của một số phóng viên của chúng ta, khó kiếm rượu làm cho người ta sử dụng nhiều ma túy hơn. Mặt khác, có một sự kiện kì lạ và lí thú là trong những năm gần đây ở Thổ Nhĩ Kì, khi số rượu vang được tiêu thụ gia tăng thì số ma túy tiêu thụ rõ ràng là đã giảm.
Tiến bộ về mặt kinh tế nói chung cũng đã giúp tạo điều kiện cho những người Mĩ có thu nhập trung bình được tiếp xúc nhiều hơn với các bác sĩ, với các cơ sở y tế, cũng như các loại ma túy đa chức năng. Sự tiến bộ đó cũng làm cho xã hội thời kì sau Nội chiến chú ý hơn đến những vấn đề về lạm dụng ma túy và nghiện ngập: “Nước Mĩ luôn luôn có “vấn đề ma túy”, mặc dù công chúng vẫn không hiểu về nó. Nhưng sau năm 1865, thông tin liên lạc nhanh chóng đã bào mòn dần sự thiếu hiểu biết đó. Tương tự như nhà ga xe lửa và tòa án, viện điều dưỡng đang trở thành đài tưởng niệm của nền văn minh” (Morgan 1974, 3). Trên thực tế, một thời gian dài sau Nội chiến thuật ngữ “nghiện” mới được một bác sĩ người Thụy Điển, tên là Magnus Huss (1807-1890), đặt ra và đưa vào sử dụng. Hiểu biết về hiện tượng nghiện ma túy thúc đẩy những cố gắng của các bác sĩ và các công ty dược có bằng sáng chế truy tìm nguyên nhân, cách chữa trị và những biện pháp làm giảm việc lạm dụng. Một số tiến bộ đã đại được trong việc hiểu biết nguyên nhân và biện pháp cai nghiện, ngay cả nếu so với tiêu chuẩn hiện nay.
Phong trào của các hội nghề nghiệp
Hiệp hội y khoa Hoa Kì (AMA), thành lập năm 1847 và Hiệp hô dược khoa Hoa Kì, thành lập năm 1852, có vai trò quan trọng trong phong trào cấm đoán. Họ bắt đầu như những nhóm li kha trong nội bộ ngành y và ngành điều chế thuốc. Mục tiêu của họ là tập trung vào việc thiết lập tiêu chuẩn nghề nghiệp để ngăn chặn những người mới tham gia vào những ngành này. Ban đầu ước muốn thiết lập tiêu chuẩn đã làm dấy lên cả sự nghi ngờ lẫn chống đối ngay trong hàng ngũ của họ.
Mối quan tâm chung của các hiệp hội là quản lí những người bán ma túy, coi đấy là phương tiện thúc đẩy mục tiêu kinh tế của các đồng nghiệp và khắc phục những vấn đề xã hội đang ngày càng gia tăng. Cả hai hiệp hội đều ủng hộ những lời kêu gọi cấm rượu. Mối quan tâm chung khác là phá hoại kẻ cạnh tranh về mặt kinh tế – ở đây là ngành công nghiệp thuốc có bằng sáng chế.
Ngành điều chế thuốc có bằng sáng chế ưu thế hơn hẳn so với các bác sĩ và những người điều chế thuốc khác vì cải tiến công nghệ, cải tiến kĩ thuật bán hàng, vận tải và thông tin. Có thể gửi thư đến hãng để mua thuốc từ bất cứ đâu, trong khi các bác sĩ và những người bào chế tư nhân thường chỉ có văn phòng trong những khu vực dân cư mà thôi.
Hiệp hội AMA và APhA không hoàn toàn thống nhất về mặt chính sách. Thực ra phần lớn cuộc chiến đấu nhằm tìm lợi ích độc quyền lại diễn ra xung quanh cuộc cạnh tranh giữa những người sản xuất thuốc và các bác sĩ sử dụng các loại thuốc của họ. Mặc dù có sự cạnh tranh như thế, nhưng Musto vẫn tuyên bố: “Các bác sĩ và dược sĩ là những người có tiếng nói và hiệu quả trong việc vận động hành lang. Mỗi bên đều thấy rằng ngoài việc giúp củng cố sự thịnh vượng xã hội, những đạo luật kiểm soát ma túy nghiêm ngặt có thể trở thành một ưu thế đặc biệt cho sự phát triển thiết chế, đấy là nói nếu việc thực thi được thực hiện một cách cực kì thận trọng trong khuôn khổ của pháp luật” (1987, 14).
Hai nghề này không phải là hai nhóm áp lực duy nhất tham gia vào việc thúc đẩy luật pháp phòng chống ma túy. Hiệp hội những người bán buôn ma túy toàn quốc, Hiệp hội những người bán lẻ ma túy toàn quốc và những nhóm khác cũng tham gia. Trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thế kỉ, dư luận xã hội không bàn thảo nhiều về việc liệu có phải làm một cái gì đó hay không mà là phải làm gì và đặc biệt là cách thức thiết lập những biện pháp cấm đoán. Trong tình hình như thế, đương nhiên là người ta phải mời ngành y và dược giúp đỡ – như các chuyên gia – tham gia vào việc ban hành luật lệ bài trừ ma túy và trên thực tế, kết quả cuối cùng là những luật lệ này phần nhiều được quyết định bởi quyền lợi của những nhóm đó.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition