![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 2: Nguồn gốc của cấm đoán (Phần 3)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.11_(1).png)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 2: Nguồn gốc của cấm đoán (Phần 3)
Liên minh cấm rượu
Nửa sau thế kỉ XIX là giai đoạn củng cố và thành lập liên minh cho phong trào cấm đoán. Sau khi đánh bại Liên minh miền Nam và “xây dựng lại” miền Nam, các nhà cải cách lại tập trung chú ý vào việc tiễu trừ các loại rượu mạnh xấu xa ra khỏi xã hội. (Muốn tìm hiểu những thay đổi chính trị quan trọng trong nửa bán thế kỉ XIX xin đọc Richard Jensen [1971; 1983] và Joel H. Silbey [1967, 1973; 1978]).
Phong trào phụ nữ, Đảng Cấm rượu, Liên đoàn bài trừ quán rượu và các tổ chức chuyên nghiệp là thành phần quan trọng của phong trào cải cách lúc đó. Những thay đổi cơ cấu trong các đảng phái chính trị lớn còn cung cấp thêm chất xúc tác cho việc cấm đoán trên bình diện quốc gia. Cũng như trước khi xảy ra Nội chiến, đạo Tin Lành theo phái Phúc Âm là lực lượng trung tâm của tất cả các thành phần này, và rượu là kẻ thù chính của phong trào cấm đoán, một phong trào đang sửa sang Trái đất cho ngày trở về của Chúa Jesus.
Phụ nữ là nguồn ủng hộ quan trọng cho các biện pháp cấm đoán. Phong trào đòi quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ, xuất hiện trước cuộc Nội chiến, tái xuất hiện một cách rực rõ nhất vào năm 1869. Hiệp hội quốc gia đòi quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ và Hiệp hội đòi quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ Mĩ được thành lập trong năm đó, và đấy cũng là năm mà phụ nữ ở hai vùng Wyoming và Utah được quyền bầu cử. Một số nhà lãnh đạo phong trào đòi quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ, như Susan B. Anthony, Elizabeth Cady Stanton, và Lucy Stone, đã tham gia vào phong trào vận động hạn chế uống rượu (Rosenstone, Behr, và 1984 Lazarus, 75). Những người phụ nữ tham gia phong trào đòi quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ và phong trào giải phóng phụ nữ đã tham gia tích cực vào hàng ngũ các tổ chức ủng hộ việc cấm rượu.Năm 1873, Liên minh hạn chế uống rượu của phụ nữ Thiên chúa giáo được thành lập nhằm liên kết phụ nữ Tin lành cho sự nghiệp cấm rượu.
Phụ nữ tin rằng họ sẽ là những người đầu tiên được lợi từ việc hạn chế uống rượu vì rượu chè quá độ nói chung đều là vấn đề của đàn ông, nhất là vấn đề của các ông chồng (Grimes 1967, 78). Phụ nữ còn có vai trò nổi bật trong cả Đảng Cấm rượu lẫn Liên đoàn bài trừ quán rượu. Quan hệ giữa phong trào đòi quyền phổ thông đầu phiếu và cấm đoán là con đường hai chiều: những người ủng hộ cấm đoán và dân bản xứ ủng hộ quyền phổ thông đầu phiếu của phụ nữ vì người ta tin rằng phụ nữ sẽ ủng hộ cấm đoán và hạn chế nhập cư (Grimes 1967, 140-44).
Việc thành lập Đảng Cấm rượu vào năm 1869 và cuộc vận động bầu cử Tổng thống đầu tiên của đảng này là biểu hiện rõ ràng nhất của quá trình chính trị hóa phong trào hạn chế uống rượu. Đảng lâu đời thứ ba trong lịch sử Mĩ thường bị người ta coi là thiếu hiệu quả và ít quan trọng đối với phong trào Cấm Rượu. Nhưng cách giải thích này đã bỏ qua vai trò của phong trào của đảng thứ ba: trình dự thảo chính sách công, lôi kéo sự chú ý của dân chúng tới những vấn đề xã hội, làm rõ những mối quan tâm của cử tri, tạo ra áp lực thay đổi trong những đảng chính trị lớn, và hình thành kinh nghiệm chính trị và huấn luyện các nhà cải cách.
Đảng Cấm rượu là đảng đầu tiên tán thành cấm rượu, tán thành luật lao động trẻ em, bầu cử trực tiếp thượng nghị sĩ, thuế thu nhập và quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ. Tất cả những “cải cách” đó cuối cùng đều được đưa vào cương lĩnh của các đảng lớn và biến thành luật. Những người bênh vực hạn chế uống rượu thu được lợi ích là hiểu sâu sắc về chính trị và có kinh nghiệm chính trị mà họ sẽ sử dụng cho những công việc sau này. Đến năm 1926, Đảng Cấm rượu vẫn còn là thành viên của liên minh bao gồm Liên minh hạn chế uống rượu của phụ nữ Thiên chúa giáo, Liên đoàn bài trừ quán rượu, và các tổ chức địa phương, tức là những tổ chức đã đánh bại Thượng nghị sĩ Cộng hòa James Wadsworth của bang New York, người ủng hộ có thể lực cho việc bãi bỏ Luật cấm rượu. Valdimer O. Key (1958, 171) thảo luận về phân công lao động giữa các đảng phái chính trị và các nhóm lợi ích đặc biệt như sau:
Trong các hoạt động của hệ thống chính trị đã có sự phân công lao động giữa các đảng phái chính trị và các nhóm áp lực. Không nhất thiết phải có sự tách bạch một cách rạch ròi các chức năng. Các đảng thực hiện một số chức năng mà các nhóm áp lực hầu như không bao giờ làm, còn một số hoạt động của các nhóm - mà có thể là phần lớn hoạt động của nhiều nhóm – liên quan đến những vấn đề mà các đảng ít khi có ý kiến. Mặt khác, các đảng và ít nhất là một số nhóm hoặc là hợp tác với nhau hoặc đối lập với nhau về một số vấn đề.
Với sự phân công lao động giữa các nhóm áp lực và các đảng chính trị như thế, người ta dễ dàng lờ đi tầm quan trọng căn bản của bên thứ ba. Nhưng Peter H. Odegard, một trong những nhà sử học quan trọng của Liên đoàn bài trừ quán rượu, đã chỉ ra: “Dĩ nhiên sẽ là sai lầm khi đánh giá quá thấp tầm quan trọng của Đảng Cấm rượu trong việc tạo ra cảm tình với việc cấm rượu. Cuộc đấu tranh lâu dài và dai dẳng của nó chắc chắn đã làm cuộc chiến đấu của Liên minh trở nên dễ dàng hơn” ([1928] 1966, 101-3). Coi Đảng Cấm rượu như một thành phần quan trọng của quá trình chính trị hóa và thành công về mặt chính trị của phong trào cấm rượu là thái độ phù hợp.
Trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1892, Đảng Cấm rượu đã tăng được số phiếu bầu từ 0,05% năm 1872 lên 2,15% mà họ từng nhận được trước khi có phong trào cấm rượu trong toàn quốc. Những bang, nơi Đảng Cấm rượu thu được nhiều thành công nhất cũng là những bang mà biện pháp cấm đoán được thi hành trước tiên. Quan trọng hơn là Đảng Cấm rượu chiếm được số phiều bầu từ những người từng ủng hộ Đảng Cộng hòa (Kleppner 1979, 246-48). Kết hợp với những thắng lợi của Đảng Nhân dân và suy thoái kinh tế, công tác tuyên truyền của Đảng Cấm rượu đã giúp sắp xếp lại một cách đầy kịch tính các đảng lớn.
Trong thập kỉ 1890, Đảng Cộng hòa không chú ý đến vấn đề cấm rượu để tập trung vào đề tài sử dụng rượu một cách điều độ và quyền phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ nhằm giành được sự ủng hộ của cử tri gốc Đức đang ngày càng đông lên. Cũng trong thời gian này, William Jennings Bryan được Đảng Cộng hòa chỉ định làm ứng cử viên Tổng thống. Vốn nổi tiếng về phiên tòa xử Scopes và quan điểm về bạc, Bryan giành được sự ủng hộ của Đảng Cấm rượu và kêu gọi người Tin lành mộ đạo miền Tây, Trung Tây và Nam ủng hộ ông (Kleppner 1987, 108-13 và 1982).
Liên đoàn bài trừ quán rượu và việc áp dụng Luật cấm rượu
Việc càng ngày càng có nhiều người thừa nhận sự thất bại của đảng trong việc thiết lập được những biện pháp cấm đoán trên toàn quốc và sự mất kiên nhẫn vốn là bản tính của các nhà cải cách đã dẫn đến việc thành lập Liên đoàn bài trừ quán rượu vào năm 1985. Liên đoàn này là vũ khí chính trị của những người theo phái Tin lành, những người ủng hộ phái Tin lành tự quản, các thành viên Hội giám lí và nhà thờ Trưởng lão. Chính Liên đoàn này đã tập hợp và lãnh đạo những nỗ lực của những người ủng hộ cấm đoán nhằm giành được ưu thế do Thế chiến I tạo ra.
Nhà thờ mà Liên đoàn này giữ thế thượng phong là một mang lưới quan liêu phức tạp, dựa vào lệ phí của các thành viên và đóng góp của các cá nhân. Phương tiện chủ yếu nhằm cổ động cho việc cấm rượu và sự lựa chọn cho từng khu vực là hoạt động của công ty xuất bản chuyên in những cuốn sách mỏng và các diễn giả được trả tiền nhằm lên án rượu từ bục giảng mỗi khi có cơ hội. Liên đoàn tự mô tả chiến dịch kêu gọi cấm rượu là “Nhà thờ hành động chống quán rượu” (Odegard 1960, 116).
Liên đoàn phát triển khá nhanh. Nếu năm 1895 chỉ có hai bang có tổ chức này thì năm 1904 Liên đoàn đã có tổ chức ở 42 bang và vùng lãnh thổ (Blocker 1976,157). Odegard ([1928] 1966, 20-21) đánh giá rằng khi Luật cấm rượu có hiệu lực, Liên đoàn đã nhận được sự cộng tác của 30.000 nhà thờ và 60.000 chi nhánh. Hoạt động của Liên đoàn bắt đầu bằng việc nhấn mạnh sự lựa chọn của khu vực. Đây là chiến lược mang lại hiệu quả trong việc qui định những biện pháp cấm đoán tại vùng nông thôn và những nơi mà người theo đạo Tin lành giữ thế thượng phong. Sau đó Liên đoàn quay sang cổ động cho việc thiết lập những biện pháp cấm đoán trên toàn quốc và đe dọa các ứng viên của những đảng lớn. Họ sử dụng lá phiếu của những người ủng hộ cấm đoán theo phái Phúc âm nhằm chuyển phiều bầu cho những ứng viên bất hợp tác sang cho những ứng viên ủng hộ sự nghiệp của họ.
Mặc dù có xuất xứ từ những người thuộc đảng Cộng hòa ở miền Bắc (Yankee), nhưng phong trào cấm đoán và thành công của Liên đoàn lại chuyển dần sang miền Tây và miền Nam. Miền Nam càng ngày càng bị “Yankee” hóa và chuyển dần sang phải Phúc âm. Odegard ([1928] 1966, 81) đã nghiên cứu chi tiết mô thức bầu cử và phát hiện ra rằng ở miền Nam ủng hộ Liên đoàn phần lớn là người theo phe Dân chủ, còn ở miền Bắc lại là người theo phe Cộng hòa. Cuộc vận động cho việc cấm đoán trên bình diện quốc gia thu được thành công lớn ở những bang nông nghiệp và Tin lành, ví dụ như những bang miền Nam, nơi có trên 80% là nông dân và 80% là người theo đạo Tin lành và trong những bang thưa dân ở miền Tây. Các bang và những thành phố lớn miền Đông-Bắc không thuộc khu vực New England vẫn chủ yếu là người gốc Ireland theo phe Dân chủ và những người theo phe Cộng hòa không chủ trương cấm rượu. Jack S. Blocker (1976, 238) nhận xét rằng Luật cấm rượu chưa bao giờ đại diện cho ý kiến của đa số, ông cho rằng Luật cấm rượu được thông qua là do người ta đã trao đổi phiếu bầu cho nhau.
Trên thực tế, Liên đoàn này đã sử dụng những chiến lược thích hợp về mặt chính trị, trong đó có cả việc hăm dọa các ứng cử viên và những người đang giữ chức vụ. Năm 1915, Liên đoàn đã hoàn toàn từ bỏ những nỗ lực mang tính tự nguyện và trong lĩnh vực giáo dục nhằm vận động cho việc sử dụng rượu một cách điều độ. Nó đã trở thành những cố gắng có tổ chức của nhà thờ Tin lành theo phái Phúc âm nhằm sử dụng chính trị vào việc dùng những biện pháp cấm đoán để bắt người ta chỉ uống một cách điều độ.
Những người ủng hộ Liên đoàn, Đảng Cấm rượu, nhà thờ cũng như những người phản đối họ thường phê phán chiến thuật của Liên đoàn. Chiến lược mang tính cơ hội chính trị của Liên đoàn, trong đó có việc trả nhiều tiền cho những nhà cải cách chuyên nghiệp và sử dụng ngay các diễn đàn cho mục đích chính trị, thường bị các nhà thờ thành viên phê phán. Việc Liên đoàn phê bình người da đen và người theo Thiên chúa giáo, thậm chí còn so sánh họ với đảng Ku Klux Klan hay coi họ không phải là công dân hoặc những kẻ không phải là người, sẵn sàng đổi phiếu bầu lấy vài li rượu cũng bị phê phán.
Theo Odegard (1966, 74), ở đỉnh cao của chiến dịch tuyên truyền, mỗi tháng Liên đoàn tung ra đến 40 tấn sách báo. Cách tiếp cận gián tiếp như thế không bị đánh thuế và áp đặt những hạn chế như đối cách tiếp cận trực tiếp với ngành sản xuất rượu. Ngành sản xuất rượu phải tuân thủ Luật phòng chống tham nhũng, luật này được thông qua nhằm giám sát việc vận động hành lang và ngăn chặn tham nhũng. Nhưng Liên đoàn không đệ trình hồ sơ theo Luật phòng chống tham nhũng cho đến khi Luật cấm rượu có hiệu lực và sau khi đã phản đối mà không được. Odegard nhận xét rằng “do không có những báo cáo cũ [báo cáo về đóng góp và hoạt động] cho giai đoạn từ năm 1910 đến năm 1918, tổ chức mang tầm quốc gia này chắc chắc đã vi phạm tinh thần và có thể là cả lời văn của Luật phòng chống tham nhũng” (1966, 210). Vì vậy mà Liên đoàn này đã có thể chi khá nhiều tiền (đến 2.500.000 đô-la một năm) cho sự nghiệp của họ mà không bị sự kiểm soát của xã hội như ngành sản xuất rượu (Odegard 1966, 181).
Thành công trong việc tìm nguồn tài chính của Liên đoàn một phần là do họ đã tổ chức được sự ủng hộ của giới kinh doanh trong việc chống lại rượu. Chìa khóa dẫn đến thành công là tên của những người đóng góp chính được giữ bí mật. Bí mật là thành tố quyết định đối với chiến dịch chống quán rượu, và như Warburton (1932, 263) nhận xét, những nghiên cứu thống kê cung cấp ít bằng chứng cho việc xác định mức độ của hành động tìm kiếm lợi nhuận độc quyền thương mại trong việc chống lại ngành sản xuất rượu.
Mọi người đều biết rằng ông A. I. Root thuộc công ty bia Root đã đóng góp khá nhiều trong quá trình thành lập Liên đoàn. John D. Rockefeller công nhận đã đóng góp hơn 350.000 đô-la cho Liên đoàn, mặc dù có những tuyên bố vô căn cứ nói rằng ông này đóng góp hàng chục triệu đô-la. Hiệp hội bia đưa ra danh sách những người đóng góp “nổi tiếng” trong đó có các quan chức của Roger Peet và công ty, mấy ông chủ của các hãng xe hơi, James Horton của Công ty kem Horton, Tập đoàn thép Mĩ, John Wanamaker, và một số quan chức của những tập đoàn lớn. Những ông chủ và các nhà quản lí của các công ty như Coca-Cola và Welch Grape Juice, tức là những công ty sẽ được lợi nếu các biện pháp cấm đoán được ban hành, cũng bị nghi là những người có đóng góp lớn vào sự nghiệp này (Odegard 1966, 271).
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition