Lẽ Thường (Common Sense) - Phụ lục

Lẽ Thường (Common Sense) - Phụ lục

Khi ấn bản đầu tiên của tiểu luận này được phổ biến, hay nói cho đúng hơn, trùng với ngày đó Bài Diễn Văn của Vua George III1 đã được phổ biến tại thành phố này. Nếu đây là điềm báo trước sự ra đời của tiểu luận này, thì phải nói là không có thời điểm nào thích hợp và cần thiết hơn lúc này. Cái khuynh hướng thiên về bạo lực của một phía cho thấy sự cần thiết theo đuổi một lý thuyết khác của phía bên kia. Người ta đã sẵn sàng để trả thù. Và bài diễn văn, thay vì làm cho người ta kinh sợ, lại mở một con đường cho những nguyên lý vững chắc đòi độc lập .

Nghi thức, và ngay cả, sự im lặng, dù phát xuất từ bất kỳ động lực nào, cũng có khuynh hướng gây ra tổn thương nếu không biểu lộ được thái độ phản cảm nhỏ nhoi nào trước những hành vi ác độc và hạ tiện; vì vậy, nếu ta chấp nhận nguyên lý này, thì ta phải chấp nhận kết  luận là Bài diễn Văn của Vua George III, một bài văn mang tính chất côn đồ và đê tiện, đáng để cho Quốc hội và nhân dân Mỹ nguyền rủa và lên án. Tuy thế, vì sự bình ổn nội địa của một nước, phần lớn lệ thuộc vào sự GIẢN DỊ của cái mà ta có thể gọi là TƯ CÁCH QUỐC GIA, thành ra nhiều khi tốt hơn là cứ bỏ qua những vi phạm như thế bằng sự khinh miệt không nói ra, thay vì sử dụng những phương thức mới để bày tỏ phản cảm mà cũng chẳng phải là sáng kiến gì mới mẻ đối với kẻ bảo hộ hòa bình và an ninh của chúng ta. Và, có lẽ, phần lớn vì sự tế nhị khôn ngoan này mà Bài Diễn Văn cho đến nay chưa bị công luận mổ xẻ. Bài Diễn Văn, nếu nó có thể được gọi như vậy, chẳng là gì khác hơn là một sự phỉ báng ác ý và trơ tráo chống lại sự thật, chống lại lợi ích chung, và chống lại sự hiện hữu của loài người; và là một phương pháp mang tính chất khoa trương và chính thức đem con người làm sinh tế cho những bạo chúa. Nhưng sự tàn sát nhân loại hàng loạt như vậy là một trong những đặc quyền, và là hậu quả chắc chắn của những ông vua; vì thiên nhiên không biết họ, nên họ cũng không biết [quy luật của] thiên nhiên, và mặc dù những ông vua là do người dân tạo ra, họ không biết đến dân chúng, và đã trở thành chúa tể của những người đã tạo ra họ. Bài Diễn văn có một điểm hay, đó là, nó được viết ra không phải để lừa dối, ngay cả chúng ta cũng không bị lừa dối bởi những ngôn từ trong bài diễn văn này. Sự tàn bạo và chuyên chế hiện rõ trên trang giấy. Ta không thể hiểu lầm được. Và khi ta đọc, mỗi một dòng đều thuyết phục ta rằng kẻ săn thú trong rừng, những thổ dân Da Đỏ dốt nát và trần trụi, vẫn còn ít man rợ hơn là ông Vua của Anh quốc.

Ngài John Dalrymple, người vẫn được cho là tác giả của bài luận văn theo phái dòng Tên với những lời lẽ đầy oán trách, mang cái tên trá ngụy là “Diễn từ của Nhân dân Anh quốc đối với Cư dân ở Mỹ,” có lẽ đã từ cái giả thuyết cao ngạo cho rằng dân Mỹ sẽ bị đe dọa bởi sự khoa trương và tính cách của nhà vua, dù rằng ai cũng biết tính cách thật sự của nhà vua như thế nào (điều này cho thấy sự thiếu khôn ngoan của Ngài John). Ngài John nói: “Nếu các ngươi muốn ca tụng chính quyền (ám chỉ Hầu tước Rockingham khi đạo luật Thuế Trà bị hủy bỏ), điều này ta thấy không có vấn đề gì cả, nhưng điều này không công bằng nếu các ngươi lại không ca tụng nhà vua, người mà chỉ cần một cái gật đầu thôi thì những quan chức kia mới được phép thi hành.” Đây chính là [sự thể hiện] chủ nghĩa bảo thủ cực đoan có nhân chứng hẳn hòi! Đây chính là sự thờ phụng thần tượng trơ tráo: Và những ai mà có thể bình tĩnh nghe và tiêu hóa cái lý thuyết này, là kẻ đã từ bỏ khả năng suy luận và đã tự rút mình khỏi cộng đồng nhân loại, và đáng được xem như là kẻ đã từ bỏ tư cách con người và hạ mình xuống hàng động vật, và bò một cách hèn hạ trên quả đất như một loài sâu.

Tuy nhiên, tới nay thì những điều nhà Vua nói hay làm cũng chẳng có gì quan trọng nữa; nhà vua đã gian ngoan bội ước với tất cả mọi bổn phận thuộc về đạo đức và đối với con người, chà đạp lên thiên nhiên và lương tâm dưới gót chân của mình, và qua tính tình láo xược và độc ác vốn có, đã thu được cho chính mình một sự căm ghét của toàn dân. BÂY GIỜ là lúc mà Mỹ phải tự lo cho mình. Nước Mỹ cũng giống như một gia đình lớn và trẻ trung, mà bổn phận là phải chăm lo cho tài sản của mình, chứ không phải dùng tài sản của mình để ủng hộ một thế lực đang trở thành một sự sỉ nhục, [không xứng đáng] với cái tên gọi Cơ-đốc nhân—Hỡi các bạn, những người chịu trách nhiệm chăm sóc nền luân lý và đạo đức cho quốc gia, dù theo bất kỳ hệ phái tôn giáo nào, cũng như những người chịu trách nhiệm trực tiếp bảo hộ sự tự do công cộng, nếu các bạn thực sự mong ước sẽ bảo vệ đất nước của mình không bị nhiễm độc bởi sự suy đồi ở Âu châu, các bạn phải, dù không nói ra, mong muốn tách rời Mỹ khỏi Anh quốc—Nhưng hãy để phần suy niệm về đạo đức tùy theo mỗi người, phần nhận xét của tôi chỉ chú trọng vào những tiêu đề chính sau đây.

Thứ nhất. Tách ra khỏi nước Anh chính là vì quyền lợi của nước Mỹ.

Thứ hai. Giữa Hòa Giải và Độc Lập, điều nào dễ nhất và thực tế nhất? Tôi có thêm vài nhận xét như sau:

Để ủng hộ lập luận thứ nhất, tôi có thể, nếu tôi nghĩ đó là điều thích hợp, đưa ra ý kiến của những bậc thức giả hàng đầu và có nhiều kinh nghiệm nhất trên lục địa này, mà tình cảm và ý tưởng của họ, chưa được công luận biết đến. Trên thực tế đây là một quan điểm hiển nhiên; đó là không có nước nào mà bị lệ thuộc vào nước khác, bị hạn chế về thương mại, bị gò bó và xiềng xích vào quyền lực lập pháp, lại có thể tạo cho mình được sự nổi trội về vật chất. Nước Mỹ chưa biết được thế nào là giàu có, phong phú; và mặc dù đã tạo được nhiều sự tiến bộ chưa từng có trong lịch sử các nước, sự tiến bộ này cũng chỉ mới ở tình trạng non trẻ, so với khả năng mà nước Mỹ sẽ đạt được, nếu nước Mỹ có và nên có cho chính mình quyền lực lập pháp trong tay. Nước Anh, ngay bây giờ đang thèm thuồng một cách say mê một điều mà nếu có thủ đắc được cũng chẳng giúp được gì nhiều cho mình; còn về phía sự lưỡng lự của Lục địa Mỹ, thì sẽ dẫn đến sự suy sụp cuối cùng nếu vấn đề này cứ bị sao lãng. Nước Anh được lợi là nhờ ở giao thương với Mỹ, chứ không phải chinh phục nước Mỹ, và phần lớn những lợi ích này sẽ được duy trì lâu dài, nếu hai nước độc lập với nhau như Pháp với Tây-ban-nha; vì có nhiều hàng hóa mà cả hai nước đều không tìm ra được thị trường tốt hơn. Nhưng sự độc lập của Mỹ đối với Anh quốc hay với các nước khác lại là vấn đề chính yếu và duy nhất đáng cho ta tranh luận, đây cũng là điều mà, giống như mọi sự thật khác, vì do nhu cầu mà ta phát hiện ra, sẽ trở nên mỗi ngày một sáng tỏ và vững chắc thêm.

Thứ nhất. Bởi vì kết quả cũng sẽ xảy ra, không vào lúc này thì lúc khác.

Thứ hai. Bởi vì càng trì hoãn lâu chừng nào, thì lại càng khó mà hoàn thành được công việc.

Tôi vẫn thường tự tiêu khiển trong những cuộc họp mặt công cũng như tư, qua sự nhận định thầm lặng mà thôi, về sự rỗng tuếch nhưng nghe có vẻ hay ho trong lập luận của những kẻ nói mà không nghĩ. Và trong vô số những lập luận như vậy, lập luận sau đây là phổ thông nhất: Nếu sự đoạn tuyệt xảy ra khoảng 40 hay 50 năm sau, thay vì BÂY GIỜ, thì nước Mỹ có lẽ sẽ có nhiều khả năng để mà tháo bỏ sự lệ thuộc. Tôi xin được trả lời rằng khả năng quân sự của chúng ta, TẠI THỜI ĐIỂM NÀY, phát xuất từ kinh nghiệm dành được từ cuộc chiến tranh vừa qua, mà nếu để qua 40 hay 50 năm, thì kinh nghiệm này sẽ bị mai một rồi. Lục địa này, cho đến lúc đó, sẽ không còn một ông tướng hay sĩ quan quân đội nào nữa; và chúng ta, hay con cháu của ta, sẽ dốt nát về những vấn đề quân sự như những người thổ dân Da Đỏ. Và chỉ cần một điểm này thôi, nếu để ý cho kỹ, cũng đủ để chứng minh mà không ai có thể bác bỏ được, đó là thời điểm hiện tại là thời điểm thích hợp nhất so với những lúc khác. [Nhưng] những người này còn suy luận thêm—khi cuộc chiến lần trước chấm dứt, chúng ta có kinh nghiệm, nhưng thiếu quân lính; và 40 hay 50 năm nữa, ta sẽ có quân số nhưng thiếu kinh nghiệm; vì thế thời điểm thích hợp hơn phải là một điểm nào đó giữa hai thái cực để số lượng của vế đầu (kinh nghiệm) vẫn còn gần đủ, và đạt được sự gia tăng đúng mức của vế sau (quân số): Và thời điểm đó chính là thời điểm hiện tại.

Tôi xin độc giả tha thứ cho sự đi lạc đề này, vì nó không nằm dưới tiêu đề tôi đặt ra lúc đầu, và lại trở lại vấn đề này nữa qua nhận định dưới đây.

Nếu mối quan hệ được hàn gắn với Anh quốc, và nước này vẫn giữ quyền cai trị và chủ quyền trên nước Mỹ, (nhưng với tình trạng đã xảy ra như hiện nay, thì vấn đề này đã coi như đã bị bỏ qua không bàn tới nữa), thì ta sẽ tự mình từ bỏ đi chính cái phương tiện giúp ta làm giảm đi món nợ ta đang mang hoặc có thể sẽ phải vay. Giá trị của những vùng đất nằm sâu trong nội địa của một số tỉnh đang âm thầm bị tước đoạt bởi sự bành trướng không chính đáng của Canada, chỉ tính với giá năm bảng Anh cho mỗi một trăm mẫu (Anh), thì giá trị cũng lên tới 25 triệu đồng tiền của bang Pennsylvania, và tiền thuế đất nếu chỉ tính giá một xu Anh một mẫu thôi, cũng lên tới hai triệu hàng năm. Nếu ta chỉ bán những vùng đất này thôi, thì có thể giảm nợ rất nhiều mà không bắt ai phải gánh chịu nhiều hơn, và người dân sẽ không phải đóng nhiều tiền thuế đất, và khi cần đến sẽ được dùng để yểm trợ cho chi phí hàng năm của chính quyền. Không cần biết bao lâu mới trả xong nợ, nhưng tiền thâu được từ những vùng đất bán đi là để trả nợ, và quốc hội sẽ, trong lúc đó, giữ nhiệm vụ bảo quản số tiền này.

Bây giờ tôi bàn đến tiêu đề thứ hai, tức là, giữa hai kế hoạch Hòa Giải và Độc Lập, kế hoạch nào dễ nhất và thực tế nhất, và có vài nhận xét sau đây.

Kẻ nào mà [biết] sử dụng [quy luật] thiên nhiên để hướng dẫn cho lý luận của mình, thì lý luận đó khó lòng mà phản bác được. Trên nguyên tắc đó, tôi trả lời Sự Độc Lập là một vấn đề đơn giản và duy nhất, hoàn toàn do ta kiểm soát; còn Sự Hòa Giải, là một vấn đề quá sức rắc rối và phức tạp và lại dính líu đến một triều đình bất nhất và xảo trá. Và đây là một câu trả lời chắc chắn, không còn nghi ngờ vào đâu được.

Tình trạng hiện tại của Mỹ thật là đáng báo động cho những ai có khả năng suy ngẫm. Nước Mỹ không có luật pháp, không có chính quyền, không có quyền lực nào ngoại trừ cái quyền được tạo nên từ đầu và được triều đình Anh ban cho. Người Mỹ đoàn kết với nhau bởi một mối tình cảm [đặc biệt] chưa từng có trên đời, nhưng tình cảm này cũng có thể thay đổi, và còn có những kẻ thù bí mật đang tìm cách tiêu diệt. Điều kiện hiện tại của ta, là, có sự Lập Pháp mà không có luật pháp; có sự khôn ngoan mà không có kế hoạch [hành động]; có một hiến pháp mà không có tên; và cái điều lạ lùng đáng ngạc nhiên là có một sự Độc Lập hoàn hảo lại đi đòi lệ thuộc. Trường hợp này là một trường hợp không có tiền lệ, chưa hề có một trường hợp nào như vậy xảy ra; và ai có thể nói được hậu quả của nó sẽ ra sao? Không có ai mà tài sản có thể được bảo đảm trong cái hệ thống [chính trị] xộc xệch như thế này được. Tâm trí của quần chúng thì tản mạn, và vì không có mục tiêu xác định, họ tha hồ suy nghĩ theo sự tưởng tượng và thị hiếu nhất thời. [Trong tình trạng này], không có gì là tội lỗi, không có gì là phản bội; vì thế mạnh ai nấy sống theo ý mình muốn. Những người Mỹ theo phe bảo thủ Tory của Anh, không dám tụ họp lại một cách hung hăng, nếu họ biết rằng mạng sống của họ, qua hành động đó đã bị luật pháp của nhà nước tước bỏ. Một lằn ranh phân biệt nên được vạch ra giữa một bên là lính Anh bị buộc phải ra trận, và một bên là những người dân Mỹ tự vũ trang. Những người lính Anh là những tù nhân, còn những người Mỹ là những kẻ phản bội. Một bên từ bỏ tự do, còn bên kia thì từ bỏ mạng của mình.

Mặc dù chúng ta cũng có khôn ngoan đấy, nhưng cũng có một nhược điểm rõ rệt trong một số những hành vi của ta mà [có thể] khích động người ta đi đến bất hòa. Cái dây lưng dùng để thắt chặt các thuộc địa lại với nhau thì lại được thắt quá lỏng lẻo. Và nếu ta không có hành động đúng lúc, thì sau này sẽ quá trễ không thể làm gì nữa cả, và ta sẽ rơi vào một tình trạng mà Hòa Giải hay Độc Lập cũng sẽ không còn thiết thực nữa. Nhà vua và những kẻ tùy tùng vô dụng của ông ta là nững người rất giỏi trong trò chơi phân hóa Lục địa, và trong chúng ta không thiếu gì những kẻ, những nhà in chẳng hạn, sẽ bận rộn phao truyền những điều lừa dối được bọc trong  những hoa ngôn rỗng tuếch. Một lá thư, chứa đầy sự giả nhân giả nghĩa và lập luận khéo léo để đánh lừa người khác, đã xuất hiện một vài tháng trước đây trên hai tờ báo ở New York, và trên hai tờ báo tương tự như vậy, là một bằng chứng cho thấy có những người chẳng thiết gì đến công lý và sự chân thật cả.

Khi bị dồn vào hoàn cảnh khó xử và chân tường, người ta dễ nói đến chuyện hòa giải: Nhưng những người như vậy có thật sự quan tâm đến sự khó khăn của nhiệm vụ này và sự nguy hiểm có thể xảy ra, nếu Lục Địa này bị phân chia? Họ có tiếp nhận những ý kiến khác nhau của những người mà hoàn cảnh của những người này cũng như của họ? Họ có tự đặt mình vào vị trí của những kẻ phải chịu đau khổ mà tất cả những gì họ có đã bị cướp đoạt mất, và của những người lính đã hy sinh TẤT CẢ cho sự bảo vệ quốc gia của mình? Nếu sự tiết chế khờ khạo của họ chỉ nhằm phục vụ cho trường hợp riêng tư của họ mà thôi mà bất kể đến những người khác, thì kết quả sẽ thuyết phục họ rằng họ đã “chỉ biết một mà không biết hai.”

Một số người nói rằng ta nên nhớ đến biến cố 1763:2 Tôi xin trả lời rằng, nước Anh bây giờ không còn quyền lực để đáp ứng thỉnh cầu này, và nước Anh cũng sẽ chẳng đưa ra đề nghị này. Và giả sử là nước Anh đưa ra đề nghị này đi và nó được chấp thuận, tôi xin đặt một câu hỏi có tình có lý là, Cái triều đình hủ bại và không thể tin được này làm sao giữ được lời hứa? Một quốc hội khác, nói cho đúng hơn, ngay cả cái quốc hội hiện tại, cũng có thể hủy bỏ trách nhiệm này, với cái cớ là đề nghị này được thành hình dưới áp lực của sức mạnh, hay đó là một quyết định thiếu suy xét. Trong trường hợp đó, ta biết đi đâu để khiếu kiện đây?—Đối với quốc gia, nói chuyện luật pháp không được; súng đại bác là luật sư của Triều đình, và lưỡi kiếm chứ không phải công lý mà là chiến tranh sẽ quyết định sự tranh chấp. Để trở lại thời điểm 63, nếu chỉ có luật lệ áp dụng cho một thuộc địa thì không đủ, nhưng trong hoàn cảnh của chúng ta, lại chỉ áp dụng cho một thuộc địa. Những phố thị của ta bị tiêu hủy và bị hỏa tai được tu sửa hay xây dựng, những thiệt hại của tư nhân được đền bù, những món nợ công (vay cho việc chiến tranh) được thanh toán; nếu không thì ta sẽ lâm vào tình trạng xấu xa hàng triệu lần hơn cái lúc mà những người chủ trương đề nghị này mong muốn. Đề nghị này, nếu được Triều đình đáp ứng một năm trước đây, sẽ chinh phục được trái tim và linh hồn của Lục Địa—nhưng bây giờ thì đã quá trễ, “Ta đã vượt qua sông Rubicon.”3 Ngoài ra, việc vũ trang, chỉ để thi hành việc hủy bỏ một đạo luật có dính dáng tới tiền bạc, có vẻ không chính đáng theo luật của thiên nhiên, và cũng gớm ghiếc với tình cảm của con người, cũng như dùng vũ lực bắt người khác phải vâng lời. Mục tiêu, của cả hai phía, không biện minh được cho phương tiện, vì mạng sống của con người quá quý giá để phung phí vào những chuyện lặt vặt như vậy. Chỉ có bạo lực của một đạo quân khi được sử dụng và đe dọa đến chính bản thân ta, tiêu hủy tài sản của ta, xâm lấn đất nước ta bằng lửa đạn, mới đáng để cho ta phải dùng đến vũ khí: Và cái thời điểm khi việc tự vệ bằng vũ trang trở nên cần thiết, thì tất cả mọi sự thần phục với nước Anh phải bị chấm dứt; và sự độc lập của Mỹ, phải được nhìn nhận là đã được xác định bởi kỷ nguyên này và phổ biến rộng rãi cho bàn dân thiên hạ biết, khi khẩu súng hỏa mai đầu tiên khai hỏa vào quân Mỹ. Lập luận này nhất quán, không phải do tình huống nhất thời, hay được diễn dịch thêm do tham vọng, nhưng là sản phẩm của một chuỗi những biến cố mà trách nhiệm không thuộc về người dân thuộc địa.

Tôi sẽ kết luận những nhận xét này bằng những gợi ý đúng lúc và đầy thành ý. Chúng ta nên cân nhắc là có ba cách để có thể tác động được đến sự độc lập; và MỘT trong BA cách này, sẽ quyết định số phận của Mỹ. Ba cách đó là: tiếng nói hợp pháp của nhân dân Mỹ qua Quốc Hội; bằng sức mạnh quân sự; hay bằng [sự nổi loạn] của đám đông—không phải tất cả những binh sĩ của ta đều là công dân và không phải số đông của những người này đều là những người có suy nghĩ phải trái; đức hạnh, như tôi đã nói không có tính di truyền hay vĩnh viễn. Nếu sự độc lập xảy ra theo cách thứ nhất, ta có mọi cơ hội và sự khích lệ ngay trước mắt để hình thành một bản hiến pháp thuần khiết nhất và cao nhã nhất trên trái đất. Ta có, trong phạm vi khả năng của mình, đủ quyền lực để khởi đầu lại thế giới. Ngày sinh của một thế giới mới ở trong tầm tay ta, và [đa số] nhân loại, có lẽ cũng nhiều bằng số người đang ở Âu châu, sẽ nhận được phần tự do của mình trong chỉ một vài tháng. Phản ánh của điều này là một điều đáng ghê sợ—và theo quan điểm này, thật là nhỏ mọn và lố bịch khi một số người yếu đuối và có tư lợi tranh luận về những điều lặt vặt khi bàn đến vấn đề liên quan đến cả thế giới.

Nếu chúng ta thờ ơ và không để ý đến giai đoạn thuận tiện và đang mời gọi này, và [để] sự độc lập sau đó bị ảnh hưởng vì những phương cách khác, thì trách nhiệm của hệ quả này chính ta hay những kẻ mà đầu óc đầy thành kiến và nhỏ hẹp, những kẻ có tập quán chống đối lại phương pháp này mà chẳng chịu suy nghĩ gì hết, phải gánh chịu trách nhiệm. Có nhiều lý do ủng hộ cho chủ trương độc lập, những lý do này ta nên suy nghĩ trong riêng tư hơn là để người khác nói cho nghe ngoài công luận. Bây giờ ta không nên bàn thảo về vấn đề xem có nên đòi độc lập hay không, nhưng nêu ưu tư về việc hoàn thành nhiệm vụ này trên một căn bản chắc chắn, an toàn, và  trong danh dự, và khó khăn hơn là không chịu bắt tay vào công việc. Mỗi ngày qua thuyết phục ta về nhu cầu này. Tất cả mọi người, ngay cả những người bảo hoàng Tories (nếu còn có những thành phần này giữa chúng ta) nên là những người hăng hái nhất để cổ xúy cho chủ trương độc lập; vì, khi các ủy ban được bổ nhiệm lúc ban đầu, sẽ bảo vệ họ không chịu sự thịnh nộ của quần chúng. Cho nên, một mô hình chính quyền khôn ngoan và được thiết lập đúng đắn, sẽ là phương tiện chắc chắn và duy nhất để bảo vệ họ một cách liên tục. Do đó, nếu họ không có đủ đức tính để trở thành những người theo đảng Whigs,4 thì họ cũng nên có đủ sự thận trọng và khôn ngoan để ước mong một nền độc lập.

Tóm lại, sự Độc Lập là mối dây duy nhất có thể liên kết và giữ chúng ta lại với nhau. Chúng ta sẽ thấy được mục tiêu của ta, tai ta sẽ từ chối một cách hợp pháp để không nghe đến những mưu toan ám muội của kẻ thù ác độc. Ta sẽ trở thành đồng đẳng với Anh quốc, vì ta có lý do để kết luận là niềm kiêu hãnh của Triều đình Anh quốc sẽ không bị tổn thương nhiều lắm nếu điều đình với nước Mỹ về những điều khoản hòa bình, hơn là điều đình về những khoản chiến phí với những “thần dân phản loạn” đã từng bị thống trị. Chính sự trì hoãn của ta sẽ khuyến khích Anh quốc có thêm hy vọng chinh phục, và sự chậm tiến của ta sẽ có khuynh hướng kéo dài thêm cuộc chiến. Như ta đã thấy là biện pháp đình chỉ giao thương để khiếu kiện những bất mãn với triều đình cũng chẳng đi tới đâu, bây giờ hãy thử bằng phương pháp khác, bằng cách tự giải quyết những bất mãn này một cách độc lập, và đưa ra đề nghị mở lại giao thương. Những người theo phái trọng thương và có suy nghĩ ở Anh quốc, cũng sẽ ủng hộ chúng ta; bởi vì, có hòa bình cùng với giao thương, thì vẫn có lợi hơn là đánh nhau mà không có gì hết. Và nếu đề nghị này không được chấp nhận, ta có thể đề nghị với những triều đình khác.

Trên những cơ sở này, tôi xin chấm dứt phần thảo luận này. Và vì chưa có ai đưa ra được sự phản bác những lập luận tôi trình bày trong những ấn bản trước, điều đó phải được xem là đúng, dù đó chỉ là một bằng chứng tiêu cực, [để] chứng minh rằng hoặc là lý thuyết này không thể bị phản bác, hoặc là thành phần những người ủng hộ cho lý thuyết này quá đông để bị phe nhóm khác chống lại. Vì thế, thay vì nhìn nhau bằng con mắt tò mò đầy nghi kỵ, chúng ta hãy nắm lấy những người hàng xóm bằng bàn tay yêu thương chân thật, liên kết lại để vạch ra một lằn ranh, như một hành vi của sự quên lãng sẽ chôn đi trong ký ức những mối bất đồng trước đây. Hãy để cho những danh xưng Whig và Tory bị tuyệt chủng; và đừng nghe đến điều gì khác, ngoại trừ [điều sau đây]: Người Công Dân Tốt, Một Người Bạn Cởi Mở và Tháo Vát, Và Là Một Người Đức Độ Ủng Hộ Cho Những Quyền Của Con Người Và Cho Sự Tự Do và Độc Lập Của Nước Mỹ.

Chú thích

(1) Diễn văn của Vua George III tại Quốc hội Anh, ngày 26 tháng 10, 1775.

(2) Hiệp ước 1763 chấm dứt chiến tranh giữa Anh cùng các thuộc địa ở Mỹ và Pháp. Trong trận chiến tranh này, Pháp thua trận và phải nhường nhiều phần đất trên lục địa Mỹ cho Anh quốc như vùng Quebec và Thung lũng Ohio, và Anh quốc nhường vùng Louisiana và hải cảng New Orleans cho Tây-ban-nha vì đã giúp Anh trong cuộc chiến này. Cuộc chiến này không đưa nước Anh và thuộc địa lại gần với nhau, vì quân Anh coi thường dân thuộc địa là quê mùa, thiếu văn hóa, còn người dân thuộc địa thì lại không muốn nhận lệnh từ ai hết. Hệ quả của cuộc chiến này là người dân thuộc địa cảm thấy gần gũi nhau hơn, một mối dây tạo thành Chủ nghĩa Quốc gia trong tương lai.

(3) Sông Rubicon là con sông ngăn đôi nước Ý thời Cộng hòa La-mã. Luật La-mã (49 BC) cấm quan chức và tướng lãnh không được dẫn quân vào địa phận của Ý. Những ai vi phạm sẽ bị coi như có âm mưu tạo phản và tước hết quyền hành. Julius Cesar dẫn quân vượt sông Rubicon và thay đổi thể chế tại La-mã. Hành động “vượt sông Rubicon” có nghĩa là chuyện đã rồi.

(4) Đảng Whig, chủ trương thiết lập nền quân chủ lập hiến, đối lập với đảng Tory chủ trương quân chủ tuyệt đối.

Nguồn: Học viện Công dân: Lẽ Thường (Common Sense) – Thomas Paine.

Dịch giả:
Nông Duy Trường