Lẽ Thường (Common Sense) - Chương III (Phần 1)

Lẽ Thường (Common Sense) - Chương III (Phần 1)

Trong những trang dưới đây tôi sẽ không trình bày những gì ngoài những sự thật đơn giản, những lý luận dễ hiểu, và những lý lẽ thông thường, chứ không có những lời phi lộ để dẫn dắt độc giả, ngoại trừ một yêu cầu là người đọc đừng mang theo định kiến và thiên kiến mà sẽ ảnh hưởng đến sự suy luận, để tự quyết định cho chính mình và nhìn nhận cho đúng bản chất của con người và mở rộng tầm nhìn của mình cho tới tương lai.

Nhiều sách vở đã viết về cuộc tranh đấu giữa nước Anh và Mỹ. Học giả đủ mọi thành phần đã tham gia vào cuộc tranh luận, từ nhiều động cơ khác nhau, theo nhiều kiểu khác nhau; nhưng tất cả đều không mang lại hiệu quả mong muốn, và giai đoạn tranh luận đã kết thúc. Vũ khí, phương tiện cuối cùng, đã được chọn lựa cho cuộc thi đua này. Nhà vua đã từ chối không nghe những thỉnh cầu của dân thuộc địa, và người dân thuộc địa đã chấp nhận sự thách thức này.

Ta đã từng nghe kể về chuyện Ngài Pelham,  đã quá cố (một đại thần và thủ tướng có khả năng nhưng cũng không thiếu khuyết điểm), khi bị tấn công tơi bời tại Viện Bình dân rằng những chính sách của ông chỉ là tạm thời mà thôi, đã phán rằng “nhưng những chính sách này CŨNG ĐỦ KÉO DÀI ĐẾN HẾT THỜI ĐẠI CỦA TA.” Nếu một ý tưởng hèn kém và nguy hại đến chết người như vậy lại là ý tưởng chỉ đạo cho cuộc thi đua đang xảy ra hiện nay tại các thuộc địa, thì hậu thế sẽ nhớ đến tên tuổi của tiền nhân với lòng khinh bỉ.

Mặt trời chưa bao giờ chiếu rọi trên một chính nghĩa sáng ngời hơn cuộc đấu tranh của chúng ta như bây giờ. Đây không phải chỉ là công việc nội bộ của một thành phố, một quận, một tỉnh, hay một nước, mà là cả một lục địa—ít nhất cũng gồm một phần tám vùng đất mà con người sinh sống được. Đây không phải là vấn đề của một ngày một buổi, một năm, hay cả một thế hệ mà, những gì xảy ra trong  cuộc đấu tranh này, sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ mai sau, và không nhiều thì ít, sẽ ảnh hưởng đến cả khi tận thế. Bây giờ là lúc chúng ta gieo hạt giống cho sự liên minh, cho danh dự, và niềm tin của lục địa Mỹ châu. Một sự rạn nứt nhỏ nhất [giữa chúng ta] trong lúc này cũng giống như ta dùng đầu kim khắc chữ lên vỏ cây non, vết thương trên vỏ cây này sẽ lớn lên theo ngày tháng và hậu thế sẽ nhìn rõ đó là những mẫu tự gì.

Khi vấn đề đã biến chuyển từ lý luận sang vũ trang, ta đã tiến sang một lãnh vực mới của chính trị; một lối tư duy mới đã nảy sinh. Tất cả những kế hoạch, và đề nghị nọ kia trước ngày 19 tháng Tư, nghĩa là trước ngày những hành vi thù nghịch khởi đầu, cũng giống như những khoản đã được ghi nhận trong nông lịch  của năm ngoái, dù đúng đắn và chính xác, đều đã bị lỗi thời và không còn giá trị gì nữa cả. Tất cả những gì mà người ủng hộ, thuộc cả hai phía của vấn đề, đưa ra đều bị chấm dứt ngay tại một điểm. Đó là sự liên minh với Anh quốc: Sự khác nhau duy nhất giữa hai phe là cách thức để đạt được sự liên minh này. Một bên đề nghị dùng vũ lực, một bên đề nghị hòa hoãn, hữu nghị. Nhưng cho đến nay, phe thứ nhất đã thất bại, còn phe thứ hai không còn muốn ủng hộ nữa.

Nhiều người đã bàn về những lợi điểm của sự hòa hợp hòa giải mà, giống như một giấc mơ đẹp đẽ, đã tan biến và để lại cho ta thực tế hiện có. Điều phải làm là ta nên xem xét lý luận của phía bên kia, và tìm hiểu cặn kẽ những tổn thất vật chất mà những thuộc địa đã phải chịu đựng và sẽ phải chịu đựng, nếu còn tiếp tục có quan hệ mật thiết và lệ thuộc vào Anh quốc: Ta phải nghiên cứu tỉ mỉ mối quan hệ và sự lệ thuộc này, trên những nguyên lý cơ bản của tự nhiên và lẽ thường, để nhận định [một cách rõ ràng] những điều gì ta có thể tin tưởng được, nếu tách ra khỏi Anh quốc, và điều gì ta nghĩ là phải xảy ra, nếu còn lệ thuộc vào nước Anh.

Tôi đã nghe một số người khẳng quyết rằng, vì nhờ vào mối quan hệ đã có với Anh quốc nên Mỹ đã từng phát triển thịnh vượng, rằng mối quan hệ này là điều kiện cần thiết cho hạnh phúc tương lai của Mỹ, và sẽ luôn mang lại cùng kết quả tốt đẹp như vậy. Nói như vậy thật là ngụy biện, cũng tỷ như ta cho rằng bởi vì đứa bé được nuôi lớn lên bằng sữa nên nó sẽ không cần đến ăn thịt, hoặc là hai mươi năm đầu của cuộc đời chúng ta sẽ là tiền lệ cho hai mươi năm sau đó. Nhưng ngay cả nếu cho những điều này là đúng đi, thì tôi cũng sẽ trả lời ngay rằng, có thể nước Mỹ đã phát triển thịnh vượng còn nhiều hơn thế nữa, nếu không có thế lực Âu châu nào dính vào nội tình nước Mỹ. Nước Mỹ được thịnh vượng nhờ ở thương nghiệp, nhờ ở cung cấp những nhu yếu cho đời sống, và sẽ luôn có thị trường khi nào người ở Âu châu còn cần ăn uống.

Nhưng Anh quốc đã bảo vệ chúng ta, một số người nói như vậy. Thực ra phải nói là nước Anh đã độc chiếm nước Mỹ qua sự bao che của mình và bảo vệ lục địa này bằng cái giá chính chúng ta phải trả, cũng như nước Anh sẽ sẵn sàng bảo vệ nước Thổ-nhĩ-kỳ vì cùng một động cơ là bảo vệ mậu dịch và thống trị.

Than ôi, ta đã để cho những định kiến cổ xưa dẫn dắt sự suy nghĩ của ta quá lâu, và đã phải hy sinh quá lớn lao cho những sự mê tín này. Ta đã từng khoe khoang về sự bảo vệ của nước Anh, mà không để ý rằng, động cơ của sự bảo vệ này là quyền lợi chứ chẳng phải vì có sự quyến luyến gì giữa mẫu quốc và thuộc địa cả. Anh quốc không bảo vệ chúng ta chống lại kẻ thù của chúng ta vì quyền lợi của chúng ta, mà để chống lại những kẻ thù của nước Anh, vì quyền lợi của nước Anh. Họ là những kẻ thù mà chẳng có sự tranh chấp gì về bất cứ vấn đề gì với chúng ta, nhưng sẽ luôn là kẻ thù của chúng ta vì cớ của nước Anh. Hãy để cho nước Anh khoe với mọi người cái quyền của họ đối với lục địa này, hay lục địa này quẳng đi sự lệ thuộc vào nước Anh và chúng ta vẫn có được sự hòa hoãn với Pháp và Tây-ban-nha nếu hai nước này có chiến tranh với Anh quốc. Những đau khổ do cuộc chiến tại Hanover gây ra là một ví dụ cảnh tỉnh chúng ta về mối quan hệ với Anh quốc.

Gần đây tại quốc hội có người còn cho rằng những thuộc địa [là những thực thể riêng rẽ], chẳng có mối quan hệ gì đến nhau cả, ngoại trừ mối quan hệ chung với mẫu quốc Anh; nghĩa là Pennsylvania, Jerseys, và các tiểu bang khác là những tiểu bang “anh em” với nhau vì có chung một mẫu quốc. Đây thiệt là một lối lý luận lòng vòng để chứng minh quan hệ bà con, nhưng lại là cách ngắn nhất và đúng nhất để chứng minh quan hệ thù địch, nếu tôi có thể nói như vậy. Nước Pháp và Tây-ban-nha đã chưa bao giờ và có lẽ sẽ chẳng bao giờ trở thành kẻ thù của chúng ta là những Người Mỹ, nhưng sẽ coi ta là kẻ thù, nếu ta là thần dân của nước Anh.

Nhưng nước Anh là mẫu quốc của chúng ta, một số người nói vậy. Nếu thế thì đối với nước Anh, đó là điều còn đáng hổ thẹn hơn nữa, bởi vì ngay cả đối với ác thú thì “hùm dữ còn không nỡ ãn thịt con,” trong những sắc dân man dã anh em còn không đánh lẫn nhau; thành ra cái lập luận “mẫu quốc” này, nếu đúng, chỉ làm cho Anh quốc bị sỉ nhục thêm mà thôi. Còn nếu lập luận này không đúng hoặc chỉ đúng một phần, thì cụm từ Mẫu Quốc đã bị nhà vua và đám quan lại ãn bám sử dụng một cách mập mờ dưới danh nghĩa của Giáo hội La-mã khiến cho những kẻ nhẹ dạ có một thành kiến sai lạc về vấn đề này. [Ta phải thấy rằng] Châu Âu, chứ không phải nước Anh, mới là mẫu quốc của Mỹ. Vùng đất Tân Thế giới này đã trở thành chốn dung thân của những người đã bị bách hại vì yêu chuộng tự do dân sự và tôn giáo từ khắp mọi miền của Âu Châu [chứ không phải chỉ ở nước Anh]. Từ Âu châu họ đã vượt thoát, không phải từ vòng tay yêu thương, dịu dàng của một người mẹ hiền, mà từ sự tàn bạo và ác nghiệt của một con quái vật. Đối với nước Anh, điều này vẫn còn đúng, vì chính nhà độc tài đã xua đuổi những người di dân đầu tiên ra khỏi nước Anh vẫn còn tiếp tục xua đuổi hậu duệ của họ.

Tại miền đất nới rộng của quả đất này, chúng ta (người Mỹ) đã quên đi cái giới hạn chật hẹp ba trăm sáu mươi dặm  (phần đất nới rộng của Anh quốc) và đã mở rộng tình hữu nghị trên diện rộng với những nước theo Thiên Chúa giáo tại Âu châu và đã chinh phục được cảm tình của họ.

Thật là thú vị khi nhận thấy rằng con người, qua những mối quan hệ thường xuyên với nhau được mở rộng, có thể dần dà vượt qua được những định kiến địa phương. Thí dụ một thị trấn của Anh quốc được chia thành những làng hay giáo khu, và một người sinh ra tại giáo khu này sẽ tự nhiên có những quan hệ với những người cùng sống trong giáo khu đó (vì quyền lợi của họ có liên hệ đến nhau), và xem nhau là láng giềng, những người cùng làng. Nếu hai người cùng làng gặp nhau ở một nơi xa quê hơn chút nữa, thì họ gọi nhau là người cùng tỉnh; còn nếu họ đi ra nước ngoài, thì họ sẽ quên đi sự phân biệt cùng làng, cùng tỉnh, mà gọi nhau là đồng bào. Còn tại một nước ngoại quốc ở Âu châu, thì vì tình lân l‎‎y‎ họ sẽ gọi nhau là người Anh. Cũng theo thể ấy, tất cả những người Âu châu gặp nhau ở Mỹ, hay tại bất cứ nơi nào trên quả địa cầu này đều là đồng bào của nhau, vì các nước Anh, Hà-lan, Đức, hay Thụy-điển, khi so sánh với cái tổng thể [lục địa Âu châu], thì ở cùng một chỗ trên diện rộng hơn, và những sự phân chia làng mạc, phố xá, thị thành khác biệt không còn ‎ có ý nghĩa gì hết. [Còn đối với nước Mỹ], chưa tới một phần ba cư dân là hậu duệ của dân Anh. Vì thế, tôi bác bỏ lập luận cho rằng nước Anh là mẫu quốc của Mỹ và từ ngữ này vừa sai lầm, ích kỷ, nhỏ nhen và chật hẹp.

Nhưng cứ giả sử rằng chúng ta đều là hậu duệ của người Anh đi, điều đó thực sự có ý nghĩa gì mới được chứ? Chẳng có ‎nghĩa gì cả. Nước Anh đang lộ mặt là kẻ thù và hành vi này đã khiến cho tên gọi mẫu quốc chẳng còn ‎nghĩa lý gì hết: Và những ai cho rằng bổn phận chúng ta là phải hòa giải, thì lập luận đó thật là lố bịch. Ông vua đầu tiên của nước Anh, người tạo nên dòng vua hiện nay (Chinh phục Vương William) là người Pháp, và một nửa số những người ngang hàng với nhà vua cũng thuộc dân Pháp; như thế, theo cùng một lý‎ luận, ta phải cho rằng nước Anh nên được nước Pháp cai trị.

Nhiều người cũng đã bàn về sức mạnh khi được kết hợp lại giữa Anh quốc và các thuộc địa, rằng khi liên kết lại thì sự kết hợp này có thể thách thức cả thế giới. Nhưng đó chỉ là một giả thuyết; trong chiến tranh không có gì là chắc chắn cả, và ngay cả lập luận này cũng chẳng có ‎ nghĩa gì hết; vì lục địa này sẽ không bao giờ phải chịu đau khổ vì bị mất người đi đánh nhau cho Anh quốc ở Á, Phi, hay Âu châu.

Ngoài ra, thách thức thế giới để được cái gì chứ? Kế hoạch của chúng ta là thương mại, và mục tiêu này khi được thực hiện tốt đẹp, sẽ bảo đảm cho ta một nền hòa bình và hữu nghị với toàn cõi châu Âu. Đó chính là vì quyền lợi của châu Âu khi có nước Mỹ trong vai trò một thương cảng tự do [mà nước nào cũng đến giao dịch được]. Như thế vì mậu dịch, nước Mỹ sẽ luôn luôn được bảo vệ, và vì không có nhiều mỏ qu‎‎‎ý kim như vàng và bạc sẽ giúp cho nước Mỹ không bị xâm lấn.

Tôi dám thách những người cổ vũ nhiệt thành cho sự hòa giải với Anh quốc chỉ cần đưa ra được một lợi ích duy nhất mà lục địa này sẽ thu hoạch được khi liên kết với Anh quốc. Tôi lập lại sự thách thức này, không có một ích lợi nào hết. Hoa màu của chúng ta  sẽ bán được giá tại bất kỳ thị trường nào tại Âu châu, và những hàng hóa nhập cảng ta muốn mua ở đâu tùy theo ‎của ta.

Nhưng những sự thiệt hại và bất lợi mà ta phải chịu do sự kết hợp này mà ra, thì lại vô số kể; và bổn phận của ta đối với cả nhân loại nói chung, cũng như với cá nhân chúng ta nói riêng, dạy cho ta một điều là phải từ chối sự liên minh này: Bởi vì, bất kỳ một sự thần phục nào, hay lệ thuộc nào vào nước Anh, cũng có khuynh hướng đưa lục địa này dính vào  những cuộc chiến hay tranh chấp ở Âu châu; và khiến cho ta phải xích mích với những nước mà lẽ ra đang muốn có giao hảo hữu nghị với ta, và ngược lại, đối với những nước này ta cũng chẳng có phiền hà hay tức giận gì cả. Vì Âu châu là thị trường mậu dịch của chúng ta, ta nên có những quan hệ toàn phần với mọi nước, thay vì chỉ có một số nước nào đó. Chính vì quyền lợi thực sự của Mỹ mà ta nên tránh xa những xung đột tại Âu châu; những xung đột mà tự những nước này chỉ có thể gây ra, chừng nào mà họ còn lệ thuộc vào nước Anh và bị Anh quốc dùng như quả cân đối trọng trên cán cân chính trị của nước Anh.

Âu châu là một lục địa có quá nhiều vương quốc trải qua bao nhiêu đời nên khó lòng sống hòa bình với nhau lâu dài, và khi nào chiến tranh xảy ra giữa nước Anh và bất kỳ nước nào tại Âu châu, thì sự mậu dịch của Mỹ sẽ bị tiêu hủy, chỉ vì mối quan hệ với Anh quốc. Cuộc chiến sắp tới có thể sẽ không có kết quả như cuộc chiến lần này, và nếu kết quả không được như vậy, thì những kẻ cổ vũ cho hòa giải bây giờ, sẽ lại mong ước là phải chi hồi đó tách ra cho xong. Con đường trung lập là con đường an toàn hơn là dính vào trong cuộc chiến. Tất cả mọi lý luận hợp lẽ hay tự nhiên đều kêu gọi phải tách rời khỏi Anh quốc. Máu của những người đã hy sinh, tiếng kêu than của thiên nhiên đều đã lên tiếng “Đây chính là lúc phải tách ra.”  Ngay cả khoảng cách mà Đấng Tạo Hóa đặt giữa nước Anh và Mỹ là một bằng chứng mạnh mẽ và tự nhiên cho thấy rằng quyền uy của nước này áp đặt lên nước kia không phải là ‎ý định của Tạo Hóa. Thời điểm mà lục địa Mỹ được tìm ra củng cố thêm cho l‎ập luận này, và cách thức những người di dân đến đây khiến cho lập luận này tăng thêm sức mạnh. Phong trào Cải cách đạo Tin Lành  xảy ra ngay sau khi lục địa Mỹ châu được tìm ra, như thể Đấng Toàn Năng đã ban ân huệ mở đường cho những người bị bách hại vì tôn giáo có chốn dung thân, khi nguyên quán quê hương không còn cho họ cơ hội sống trong tình hữu nghị và an ninh nữa.

Quyền uy của nước Anh đối với lục địa này, hiểu theo nghĩa quyền uy của một chính quyền, trước sau gì cũng phải chấm dứt: Và những người suy nghĩ sâu xa không thể có được niềm vui thực sự khi xem xét sự thật rõ ràng và đau lòng: cái mà ta gọi là “hiến pháp hiện tại” chỉ là giải pháp tạm thời. Là phụ huynh, ta không thể có được niềm vui nào hết khi biết rằng cái chính quyền này sẽ không tồn tại được lâu dài để bảo đảm những gì ta muốn giao truyền lại cho hậu thế của mình. Và cùng một cách l‎ập luận, vì ta đang để lại món nợ to lớn cho con cháu chúng ta, thì ta cũng phải làm việc để trả món nợ đó, nếu không, ta đã sử dụng món nợ đó một cách nhỏ mọn và bần tiện. Để tìm ra con đường thực hiện bổn phận của ta một cách đúng đắn, ta phải nắm tay con cháu ta cùng đi với ta và nhắm tới đời sống tương lai xa hơn, và ở chốn đó ta sẽ thấy  triển vọng của tương lai mà hiện nay ta không thấy được vì một số những thành kiến và sợ hãi đã che khuất đi.

Mặc dù tôi sẽ rất cẩn thận để không đưa ra những lời tấn công không cần thiết, tuy thế tôi vẫn có khuynh hướng tin rằng tất cả những ai đang tán thành lý thuyết hòa giải với Anh quốc, có thể được gom vào trong một nhóm gồm những người như sau: Những người có dính dáng đến quyền lợi cá nhân, những người này không thể tin được; những người yếu đuối, tức là những người không thể nhìn xa; những người có thành kiến, tức là những người không muốn nhìn; và một số người trung dung, không quá khích lắm nhưng luôn nghĩ tốt cho Âu châu hơn là thực tế cho thấy. Và trong số người nay, chỉ cần quyết định của một sự nghị luận thiếu suy xét kỹ lưỡng, sẽ gây ra nhiều thảm họa cho lục địa này hơn là cả ba nhóm kia cộng lại.

Thật là may mắn cho những ai được sống cách xa nơi xảy ra chuyện não lòng vì cái ác chưa được đem đến tận cửa để cho họ có thể cảm nhận được tính bấp bênh của quyền sở hữu tài sản của người Mỹ. Nhưng hãy để cho trí tưởng tượng đưa chúng ta trong thoáng chốc đến vùng Boston, nơi mà sự bất hạnh và tồi tệ đang xảy ra sẽ cho ta sự khôn ngoan và dạy cho ta phải mãi khước từ cái quyền lực mà ta không thể tin cậy được. Những người dân của thành phố kém may mắn đó, là những người, chỉ vài tháng trước thôi đang sống một đời sống nhàn tản và sung túc, còn bây giờ họ không có lựa chọn nào khác hơn là ở lại và chịu đói khát, hay ra đi và phài ăn xin. Nếu họ tiếp tục ở lại thành phố, họ sẽ chịu nguy hiểm vì làn đạn của quân bạn, và bị lính tráng cướp bóc nếu rời thành phố. Trong điều kiện hiện tại, họ là những tù nhân không có hy vọng được cứu chuộc, và khi cuộc tổng tấn công nhằm giải phóng thành phố của họ, họ sẽ là những người dân bị kẹt giữa cơn cuồng nộ của cả hai quân đội.

Những người có tâm tính tiêu cực thường bỏ qua những sự xúc phạm mà nước Anh đã gây ra cho dân Mỹ, và vẫn còn hy vọng điều tốt nhất sẽ xảy ra, sẽ có khuynh hướng đề nghị như sau: “Hãy lại đây. Chúng ta lại trở thành bạn như cũ, dù đã có xung đột với nhau.” Nhưng ta hãy xét xem những nhiệt tình và xúc cảm của con người, và đem cái lý thuyết “hòa hợp, hòa giải” ra thử nghiệm trên thực tế, rồi cho tôi biết là ta còn có thể yêu thương, tôn vinh và phục vụ trung thành đối với một thế lực mà đã từng gây máu lửa chiến tranh trên đất nước của mình hay không? Nếu [sau khi vấn tâm] mà thấy không thể làm được, thì kêu gọi “hòa hợp, hòa giải” chỉ là tự đánh lừa mình. Và càng kéo dài thì giờ bao nhiêu, thì ta lại càng gây ra thêm tai hại cho hậu duệ của của chúng ta. Mối quan hệ trong tương lai với nước Anh mà ta không thể yêu mến hay tôn trọng, là mối quan hệ gượng ép và thiếu tự nhiên, và được tạo nên chỉ vì sự tiện lợi của hiện tại, sẽ chẳng bao lâu lại quay trở lại tình trạng còn tồi tệ hơn tình trạng lúc ban đầu. Nhưng nếu bạn cho rằng bạn có thể quên những bạo động đã từng xảy ra, tôi sẽ hỏi bạn, Nhà của bạn có bị đốt cháy không? Tài sản của bạn có bị tiêu hủy hay phá hoại trước mắt bạn không? Vợ và con bạn có bị cơ cực vì thiếu mái nhà để ở và miếng cơm để ăn không? Cha mẹ hay con cái bạn có bị quân Anh giết chết không? Và chính bạn cũng chỉ là kẻ sống sót đã bị bầm dập? Nếu bạn không trải qua tình cảnh này, thì bạn không thể phán xét những người trong cuộc. Còn nếu bạn đã trải qua những cảnh này mà vẫn còn có thể bắt tay với những kẻ sát nhân, thì bạn không xứng đáng là chồng, cha, bạn hữu, hay những tước vị bạn đã có nữa. Bạn có tấm lòng của kẻ hèn nhát và tinh thần của kẻ bợ đỡ mà thôi.

Đây không phải là gây ra khích động hay cường điệu hóa vấn đề, nhưng hãy để những xúc cảm và tình cảm mà tự nhiên ai cũng có để cảm nhận, những tình cảm mà nếu không có thì ta sẽ không thể nào thực hiện được những bổn phận hay hân hưởng những hạnh phúc của đời sống. Tôi không có ý đưa ra những hình ảnh ghê rợn nhằm mục đích xúi giục trả thù, nhưng để đánh thức mọi người thức giấc từ những giấc ngủ mê nguy hiểm đến chết người, để chúng ta có thể cùng định rõ một mục tiêu cố định. Không phải sức mạnh của Anh quốc hay Âu châu có thể chinh phục được nước Mỹ, chính nước Mỹ để cho người khác chinh phục vì sự nhút nhát và diên trì của mình. Mùa đông hiện tại sẽ có giá trị bằng một thời đại, nếu ta biết lợi dụng thời cơ, nhưng nếu để cho mất đi hay xao lãng hoặc thờ ơ, thì cả lục địa sẽ cùng chịu vận rủi, và lúc đó ta sẽ chịu sự trừng phạt xứng đáng, bất kể ta là ai, là gì, hay ở đâu, vì đã để mất một mùa quá quý báu và hữu ích.

Lập luận cho rằng lục địa này có thể vẫn là thuộc địa của bất cứ thế lực nên ngoài nào là một lập luận mâu thuẫn với luận lý, với quy luật chung của thiên nhiên, và với tất cả những bài học lịch sử của thời xưa. Ngay cả những kẻ lạc quan nhất của nước Anh cũng không nghĩ như vậy. Sự khôn ngoan của con người, dù có được vận dụng đến đâu đi chăng nữa, thì trong lúc này, cũng không thể đưa ra một kế hoạch hay hơn là phải phân cách Anh và Mỹ, chỉ có như vậy thì mới có thể  dành cho nước Mỹ có được ít ra là một năm sống trong an toàn. Sự hòa hợp, hòa giải, bây giờ chỉ là một giấc mơ ngụy biện mà thiên nhiên đã cắt đứt mối liên hệ, và không có kỹ xảo nào [về lý luận] có thể thay thế. Vì như Milton đã khôn ngoan nhận xét, “không bao giờ sự hòa hợp, hòa giải thực sự có thể phát triển được nơi vết thương căm thù chí tử đã bị đâm quá sâu.”

(Còn nữa)

Nguồn: Học viện Công dân: Lẽ Thường (Common Sense) – Thomas Paine.

Dịch giả:
Nông Duy Trường