[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 5: Tại sao cấu trúc vốn là yếu tố quyết định
Các nhà kinh tế học dòng chính thường coi vốn là thuần nhất - đồng nhất, tương tự như cát, từng phần vốn đều giống như bất kỳ phần vốn nào khác. Trong các tính toán, mô hình và dự báo của mình, họ chỉ quan tâm là có bao nhiêu vốn mà thôi.
Nhưng trên thực tế vốn rất đa dạng. Nó chỉ tồn tại trong những hàng hoá vốn cụ thể, tất cả đều khác nhau: từ búa và liềm đến ô tô và xe tải, nhà máy bông và nhà máy sản xuất ô tô, máy tính và máy in, máy tính tiền và tủ cấp đông, các khoản vay và trái phiếu, v.v. Sử dụng loại hàng hoá vốn nào, sử dụng như thế nào và chúng kết nối với các hàng hoá vốn khác như thế nào, tất cả đều có ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả kinh tế.
Không hiểu hiện tượng này dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Ví dụ, nói về “tỷ lệ” hoàn vốn, như nhà kinh tế học người Pháp, Thomas Piketty (1971−), đã làm trong cuốn sách xuất bản năm 2013 Vốn trong thế kỷ 21 (Capital in the Twenty-First Century) là vô nghĩa. Những hàng hoá vốn khác nhau - tạo thành vốn - đều có mức độ rủi ro và phần thưởng tiềm năng khác nhau, và có những chủ sở hữu khác nhau, tức là những người có trình độ kỹ năng khác nhau trong việc quản lý và sử dụng vốn cho những mục đích khác nhau. Ngoài ra còn có nhiều con đường khác nhau dẫn đến các loại vốn khác nhau có thể bị mất, bị ăn cắp, tẩu tán, tiêu dùng, bị đánh thuế; một số cách thức có thể dễ dàng hơn một số khác, nhưng tất cả đều ảnh hưởng đến lợi nhuận tiềm năng của các hàng hoá vốn khác nhau, bằng nhiều cách khác nhau và ở nhiều mức độ khác nhau. Không chỉ có thế, tỷ lệ phối hợp các hàng hoá vốn được sử dụng cũng thay đổi liên tục: hiện nay chúng ta sử dụng ô tô và máy tính trong khi trước đây chúng ta sử dụng xe ngựa và thước logarit. Vì vậy, không có một bản đồng nhất, không thay đổi về vốn của một đất nước với “tỷ lệ hoàn vốn” đồng nhất, không thay đổi.
Mạng lưới hàng hoá vốn
Biện pháp liên kết hàng hoá vốn này với hàng hoá vốn khác thậm chí còn quan trọng hơn là có bao nhiêu hàng hoá vốn hoặc số tiền đã bỏ ra nhằm có được chúng. Chuỗi cung ứng có thể rất dài, với rất nhiều nhà sản xuất ở các nước khác nhau tạo ra những đầu vào khác nhau nhằm tạo ra các thành phẩm và sau đó là hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà chúng ta tiêu thụ.
Xim xem xét lại chiếc áo khoác len đơn giản của Adam Smith. Không chỉ nhiều người, mà rất nhiều hàng hoá vốn phải được kết hợp lại thì mới cung cấp được sản phẩm cuối cùng này. Đấy là các cửa hàng và vật dụng trong cửa hàng của người bán lẻ, nhà kho và xe tải của người bán buôn, khung cửi và máy may của người sản xuất, xưởng nhuộm và khung kéo sợi của những người sản xuất sợi len, máy cắt và máy đóng kiện của những người chăn cừu, xưởng luyện kim và xưởng đúc của những người chế tạo công cụ và thiết bị mà tất cả những người này sử dụng, tàu và máy bay của những người chuyên chở để vận chuyển nguyên liệu thô và thiết bị được sử dụng ở từng giai đoạn - cộng với nhiều thứ khác, tất cả đều góp phần vào việc cung cấp cái áo len đơn giản này. Ngay cả như thế, quy trình sẽ không thể hoạt động nếu không có các thiết bị khác nhau để cung cấp thức ăn, nước uống, nhà ở và thực tế là cả quần áo cho những người làm việc trong quy trình sản xuất này
Rõ ràng, thiếu vắng bất kỳ hàng hoá vốn nào trong những hàng hoá vốn này có thể làm gián đoạn toàn bộ quá trình sản xuất, tạo ra tình trạng thiếu hụt, tạo ra các vấn đề về nguồn cung và cơn ác mộng về hậu cần cho tất cả các hoạt động tiếp theo trong chuỗi. Ví dụ, nếu không có nhà máy nhuộm, thì không thể cung cấp len thành phẩm cho thợ dệt và thợ hoàn thiện, và do đó không thể gửi quần áo tời người bán buôn, người bán lẻ và khách hàng.
Do đó, phương pháp kết nối các hàng hoá vốn thành mạng lưới rộng lớn, có tính toàn cầu này là tối quan trọng trong việc duy trì và cải thiện năng suất cũng như hiệu quả của quá trình sản xuất hàng hóa. Mạng lưới đó bao gồm cả những món hàng hóa được sử dụng trong quá trình sản xuất và hàng hóa chuyển tới tận tay khách hàng – những hàng hóa tiêu dùng, ví dụ áo khoác len; đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng là toàn bộ mục đích của nỗ lực này.
Do đó, năng suất lao động của chúng ta không chỉ phụ thuộc vào số vốn hay số nhà máy, máy móc, xe tải và công cụ mà chúng ta đang có. Cấu trúc vốn, tức cách thức kết nối hàng hoá vốn của chúng ta, có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta cần, chúng ta muốn, cũng như phương pháp sản xuất có hiệu quả và năng suất cao.
Sự mong manh của cấu trúc vốn
Những người ảo mộng chính trị hay các nhà hoạch định kinh tế thường lờ đi vai trò quan trọng của cấu trúc vốn; họ nghĩ rằng có thể lấy vốn của chủ sở hữu và đem tái phân phối cho người khác hoặc sử dụng “hợp lý hơn” mà không làm giảm giá trị mà nó tạo ra - và thật vậy, thường là với kỳ vọng rằng, trong những bàn tay mới này, vốn sẽ hiệu quả hơn và sản xuất ra những món hàng hóa có giá trị cao hơn so với những hàng hóa hiện nay. Nhưng sự thật đơn giản là ít nhất cũng sẽ xảy ra gián đoạn to lớn trong quá trình sản xuất.
Các nhà hoạch định kinh tế cần nhớ rằng cấu trúc phức tạp của hàng hoá vốn, trải rộng trên nhiều quốc gia, nhiều ngành sản phẩm và nhiều quy trình, là kết quả của quá trình tiến hóa, trong đó mỗi bộ phận của mạng lưới liên tục được các chủ sở hữu điều chỉnh và tái định hình nhằm đáp ứng những yêu cầu luôn thay đổi của khách hàng và để sản xuất những thứ mà người tiêu dùng đánh giá cao nhất. Ví dụ: nếu thời tiết ấm lên và người mua hàng bắt đầu yêu cầu quần áo bằng vải bông chứ không mua quần áo len nữa, thì những người bán lẻ và bán buôn bắt đầu đặt thêm quần áo bằng vải bông, còn các nhà sản xuất thì hiệu chỉnh thiết bị để sản xuất quần áo bằng vải bông, các nhà cung cấp bắt đầu mua thêm vải bông, còn các chủ tàu thì thay đổi lộ trình để đưa thêm bông thô từ các đồn điền có nhiều bông hơn nhằm đáp ứng nhu cầu mới. Tương tự như những gợn sóng lan ra khi ta ném hòn đá xuống ao, nếu cần, người ta sẽ làm cho toàn bộ quá trình thích nghi với thực tế mới, sẽ sắp xếp lại hoặc thay thế các bộ phận riêng lẻ của cấu trúc vốn.
Các nhà hoạch định chính sách cũng cần nhớ rằng vốn không thuần nhất và không phải tất cả hàng hoá vốn đều có thể được chuyển sang sử dụng cho các mục đích khác khi hoàn cảnh thay đổi. Một số tư liệu, chẳng hạn như kéo, máy khâu hoặc xe tải, có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau: chúng sẽ cắt, khâu vá hoặc vận chuyển vải bông cũng giống như vải len. Nhưng, có thể cần phải điều chính khá nhiều thì mới chuyển máy dệt quy mô công nghiệp chuyên dùng để dệt vải thì mới có thể dệt được sợi bông mịn hơn. Tệ nhất là, có thể phải loại bỏ hoàn toàn những máy móc đã được sử dụng trong sản xuất và mua những những máy móc chuyên dụng mới.
Việc một số hàng hoá vốn không thể được chuyển đổi cho những mục đích khác là một lý do nữa giải thích vì sao quyền sở hữu vốn không đảm bảo cho chủ sở hữu khoản lợi nhuận an toàn và dễ dàng. Khi hoàn cảnh thay đổi, có thể phải thanh lý một số hàng hoá vốn - chủ sở hữu sẽ bị thiệt hại thực sự. Ví dụ, guồng kéo sợi gia đình và khung dệt thủ công của những người thợ dệt len Scotland đã mất giá trị sau khi người ta phát minh ra khung kéo sợi và khung dệt chạy bằng sức nước. Và người ta cũng đã phải chỉnh sửa nhiều máy móc kiểu này thì mới xử lý được sợi bông mới nhập từ Mỹ. Hiện nay, phần lớn những chiếc máy này và kho chứa chúng đã bị tháo dỡ và phá hủy – để làm văn phòng, khu triển lãm hoặc bảo tàng - vì hiện nay nước Anh nhập khẩu rất nhiều quần áo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nepal và các thị trường đang phát triển khác.
Ngay cả các ngành công nghiệp quốc doanh cũng không tránh khỏi bị tổn thất vốn. Nhà máy Zwickau ở Đông Đức, chuyên sản xuất xe Trabant từ năm 1957, đã hoàn toàn vô dụng, sau khi nước Đức thống nhất; người dân có thể mua những chiếc ô tô chạy nhanh hơn, yên tĩnh hơn, sạch sẽ hơn và thoải mái hơn, và nhà máy chỉ còn là một đống đổ nát, bỏ hoang. Quả thực, đấy là số phận của phần lớn những đồng vốn lỗi thời và vô dụng của Liên Xô cũ.
Chính sách tồi có thể làm cho người ta mất hết vốn
Vốn có thể bị mất sạch chỉ vì nó không còn ở đúng nơi và đúng thời điểm nữa. Khi công nghệ phát triển, cũng như khi nhu cầu, mong muốn và thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi, thì cấu trúc vốn phải thích ứng nhằm phản ánh những thay đổi đó - một loại vốn nào đó có thể đơn giản là không thích ứng được và sẽ phải thanh lý. Nhưng như chúng ta đã thấy, vốn có thể bị thất thoát qua nhiều cách khác nhau, trong đó có dự báo sai, phán đoán sai hoặc chủ sở hữu không biết quản lý.
Chính sách công cũng có thể phá vỡ cấu trúc vốn và làm mất vốn - nhưng không phải lúc nào cũng chủ ý của chính sách. Ví dụ như chu chu kỳ bùng nổ-suy thoái (còn gọi là chu kỳ kinh doanh) mà nhiều quốc gia trải qua. Hiện tượng bùng nổ có thể xảy ra vì công nghệ mới giúp cho người ta sản xuất được nhiều hàng hóa tốt hơn hoặc rẻ hơn – phát minh ra động cơ hơi nước, điện hoặc internet là những trường hợp như thế. Nhưng những phát minh này không làm cho người ta phá sản, trừ khi người ta đánh giá quá cao những lợi ích tiềm tàng của công nghệ mới và đầu tư quá mức vào những cơ sở này.
Thế thì cái gì gây ra các chu kỳ bùng nổ-suy thoái, rất phổ biến và thường xuyên như thế? Các nhà kinh tế học trường phái Áo là F. A. Hayek (1899−1992) và Ludwig von Mises (1881−1973), là những người đã nghiên cứu những chu kỳ này, rút ra kết luận cho rằng chu kỳ bùng bổ-suy thoái thường là do chính sách công sai lầm mà ra. Những chu kỳ này bắt đầu bằng việc các chính phủ tìm cách kích thích hoạt động kinh tế và thúc đẩy việc làm bằng cách giữ lãi suất ở mức thấp hoặc đưa thêm tiền vào lưu thông. Người tiêu dùng có nhiều tiền hơn, họ chi tiêu nhiều hơn và chi tiêu nhiều hơn để mua những sản phẩm đắt tiền và tinh tế mà giờ đây họ đủ tiền để mua. Vay được tiền với lãi suất thấp, các nhà sản xuất tìm cách nắm bắt một phần nhu cầu của người tiêu dùng bằng cách đầu tư vào nhà máy và thiết bị mới để sản xuất tất cả những món hàng hóa này.
Nhưng cũng giống như cơn say rượu hay phê ma túy, sau đó sẽ là đau đớn khó chịu, theo sau vụ bùng nổ tiền tệ và tín dụng là suy thoái. Người ta sẽ tiết kiệm ít hơn, vì lợi tức mà các khoản tiết kiệm mang lại đã giảm đi. Vì vậy, các ngân hàng sẽ không có đủ tiền cho tất cả những người muốn vay mới và bắt đầu thu tiền cho vay về. Đối mặt với tình trạng thắt chặt tín dụng, khách hàng quay trở lại mua các sản phẩm rẻ hơn và cần thiết hơn. Nhưng các nhà sản xuất đã chót xây dựng nhà máy và mua thiết bị cần thiết nhằm sản xuất những mặt hàng xa xỉ phẩm mà người tiêu dùng không mua nữa. Bây giờ những hàng hoá vốn này chẳng còn được sử dụng cho mục đích nào nữa: dây chuyền sản xuất bị đóng cửa, máy móc bị thanh lý, còn công nhân thì bị sa thải – những cửa hàng phụ thuộc vào những khoản chi tiêu của những người công nhân này cũng sẽ bị rơi vào suy thoái, và một số sẽ phải đóng cửa vĩnh viễn. Đó là vụ bùng nổ giả tạo, do lãi suất thấp và dễ vay được tiền, nhưng vụ bùng nổ này đã gây ra tổn thất thực sự.
Những thảm họa như thế - như những vụ bùng nổ và sự sụp đổ tài chính diễn ra sau đó trong những năm đầu 2000 - không phải do các chủ ngân hàng hay lòng tham hay bất kỳ cách giải thích phổ biến nào khác gây ra. Đấy là do các cơ quan nhà nước gây ra, trong khi tìm cách kích thích tăng trưởng kinh tế, họ gửi đi những tín hiệu sai lệch, phá vỡ mạng lưới cấu trúc vốn mỏng manh. Chính sách tồi dở gây ra những thiệt hại lớn hơn hẳn bất kỳ thiệt hại mà sai lầm hay sự kém cỏi của bất kỳ chủ sở hữu vốn cá nhân nào hoặc quá trình thay thế công nghệ này bằng công nghệ khác có thể gây ra. Các chu kỳ bùng nổ-suy thoái ảnh hưởng đến tất các các thành phần kinh tế: thiệt hại không chỉ giới hạn ở một công ty hay một lĩnh vực mà lan rộng và mang tính hệ thống. Ảo tưởng về sự thịnh vượng do chính sách thiển cận của chính quyền tạo ra là vọng tưởng sớm nở tối tàn; tuy nhiên, nó dẫn đến những mất mát thực sự, nhân viên bị sa thải và phá sản - và đấy thường là thất bại của chính các ngân hàng – làm tan nát cấu trúc vốn và toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận
Tóm lại, vốn không phải là một cái gì đó thuần nhất mà người ta có thể xáo trộn theo ý mình mà không gây ra bất kỳ sự gián đoạn hay chi phí nào; nó cũng không phải là nguồn thu nhập được đảm bảo trong thời gian dài cho những chủ nhân được cho là may mắn của nó. Ngược lại, vốn chỉ tồn tại trong những hàng hoá vốn cụ thể, chẳng hạn như công cụ hay máy móc cụ thể, hoặc vốn con người gồm những kỹ năng và kiến thức cụ thể của từng cá nhân mỗi người. Mọi hàng hoá vốn đều có những đặc điểm khác nhau — bền hay không bền, có thể sử dụng cho nhiều mục đích hay chỉ có thể dùng cho một mục đích, có thể thích ứng hay không thích ứng trước những nhu cầu đang thay đổi có ít nhất một số giá trị khi bị thanh lý hay không, v.v.
Hơn nữa, năng suất lao động gia tăng nhờ có những hàng hoá vốn này, và thu nhập tăng lên do năng suất gia tăng, không chỉ nằm trong tay những người sở hữu hàng hoá vốn mà được chia sẻ ở một mức độ nào đó cho toàn thể nhân dân. Đường giao thông, mạng lưới dịch vụ công cộng, trình độ học vấn và kỹ năng của người dân trong nước, cũng như hàng hóa và dịch vụ tốt hơn và rẻ hơn do các nhà sản xuất đầu tư vào các quy trình và thiết bị hiệu quả hơn mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Nhưng lợi ích không phải là vĩnh viễn. Vốn có thể bị mất hoặc bị ăn cắp; vốn có thể bị sa sút hay bị sử dụng cho tiêu dùng; có thể bị quản lý sai hay áp dụng sai; có thể trở thành dư thừa do công nghệ mới xuất hiện hay bởi sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng. Vốn không phải là “niêu cơm Thạch Sanh” chỉ dành cho một số ít người may mắn: Vồn phải được tạo ra, nuôi dưỡng, bảo vệ và quản lý. Đây không phải là nhiệm vụ đơn giản.
Cuối cùng, vốn phải đưa vào mạng lưới. Hiện nay, có nhiều quy trình sản xuất kéo dài và phức tạp, cần đầu vào là nguyên liệu thô và các bộ phận đến từ mọi miền trên thế giới, và đến lượt mình, những thứ này lại phụ thuộc vào các hoạt động quốc tế phức tạp khác nhằm thu thập, xử lý và lắp ráp chúng lại với nhau. Hàng hoá vốn được sử dụng trong suốt quá trình sản xuất như thế phải được vận hành đồng bộ ở tất cả các giai đoạn.
Do đó, sẽ là sai lầm lớn khi giả định rằng chúng ta có thể nắm quyền kiểm soát vốn của một đất nước (hoặc của thế giới) và chuyển hướng nhằm tạo ra một số kết quả có giá trị hơn mà không phải trả giá. Ý tưởng này dường như khả thi về mặt lý thuyết, nhưng rất khó xảy ra: xét đến cùng, nhiều hàng hoá vốn hoặc tất cả những hàng hoá vốn đã được tạo ra với mục đích cụ thể và trở thành một phần của mạng lưới sản xuất quốc tế phức tạp. Chẳng khác gì tưởng tượng rằng chúng ta có thể sắp xếp lại các mảnh của trò chơi ghép hình để tạo ra một bức tranh đẹp hơn: nhưng các mảnh không dễ dàng khớp lại với nhau theo bất kỳ cách nào khác; và các mảnh này hoàn toàn không có khả năng tạo ra bức tranh đẹp hơn. Muốn tạo một bức tranh mới, chúng ta cần tạo ra và lắp ráp các mảnh ghép mới; tương tự như thế, muốn tạo ra các sản phẩm khác nhau, chúng ta cần tạo ra các hàng hoá vốn khác nhau và kết hợp chúng lại với nhau trong một cấu trúc sản xuất chặt chẽ. Quá trình này được thực hiện bằng quá trình thử-sai, đã tiến hóa trong thời gian dài, liên tục trên thị trường chứ không phải bởi những quyết định hay thay đổi và mang tính chính trị do một số nhà hoạch định chính sách, nhà cai trị độc tài hay những nhà lập pháp đưa ra.
Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.
