![[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 3: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (Phần 5)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25004.1_(1).png)
[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 3: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (Phần 5)
VI.
Đặc tính tư biện của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự quyến rũ đối với giới trí thức, và điều này trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta đối sánh thêm lập trường của nhà lí luận xã hội chủ nghĩa với lập trường của nhà lí luận tự do [cổ điển]. Sự so sánh này cũng giúp chúng ta đánh giá thỏa đáng về các xung lực trí tuệ đang làm xói mòn những nền tảng của một xã hội tự do, và từ đó rút ra được bài học cần thiết.
Khá nghịch lí là một trong những bất lợi chủ yếu khiến nhà tư tưởng tự do bị mất ảnh hưởng đại chúng lại có quan hệ mật thiết với thực tế như sau. Trước khi chủ nghĩa xã hội thực sự xuất hiện nhà tư tưởng tự do hẳn đã có nhiều cơ hội hơn để gây ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định về chính sách hiện thời. Như vậy là, không những anh ta đã thôi đam mê với công việc tư biện [về các vấn đề] dài hạn, là cái tạo ra sức mạnh cho những người xã hội chủ nghĩa, mà trên thực tế, còn tỏ ra chán nản với công việc đó bởi có vẻ như là bất cứ nỗ lực nào thuộc loại này sẽ làm giảm bớt đi điều tốt đẹp trước mắt mà anh ta có thể làm được. Để ảnh hưởng đến các quyết sách thực tiễn, anh ta phải vận dụng mọi quyền lực có được từ vị thế quan hệ của anh ta với các vị đại diện của trật tự hiện hành, nhưng vị thế này sẽ bị nguy hại nếu anh ta dấn thân vào công việc tư biện, thứ quyến rũ giới trí thức và qua giới này có thể ảnh hưởng đến những sự phát triển trong các giai đoạn dài hơn. Để có ảnh hưởng tới những người quyền thế, anh ta phải “thực dụng”, “biết điều”, và “thực tế”. Chừng nào còn gắn mình với các vấn đề trực tiếp, anh ta còn được tưởng thưởng bằng sự ảnh hưởng, thành công vật chất, và sự nổi tiếng do những người, ở một mức độ nào đó, còn chia sẻ quan điểm chung với anh ta. Nhưng những người này ít có được sự kính trọng đối với những loại công việc tư biện về các nguyên lí chung vốn định hình “bầu không khí trí tuệ”. Quả thực là, nếu theo đuổi một cách nghiêm túc công việc tư biện [về các vấn đề] dài hạn như vậy anh ta dễ bị mang tiếng là người “không lành mạnh” hay thậm chí là bị tiêm nhiễm tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bởi lẽ anh ta không có ý đồng nhất trật tự hiện hành với hệ thống tự do mà anh ta muốn hướng tới1.
Nếu, bất chấp điều này, anh ta vẫn nỗ lực tiếp tục theo đuổi hướng tư biện chung thì anh ta sẽ mau chóng phát hiện ra rằng anh ta không còn được an toàn khi kết giao quá mật thiết với những người có vẻ chia sẻ hầu hết các xác tín của mình và anh ta mau chóng bị cô lập. Quả thực hiện nay có lẽ hiếm còn công việc nào bạc béo hơn so với nhiệm vụ phát triển nền tảng triết lí mà một xã hội tự do, nếu còn muốn tiếp tục phát triển, nhất thiết phải dựa vào. Do người gánh vác trọng trách này phải chấp nhận phần lớn khuôn khổ của trật tự hiện tồn, nên trong con mắt của đa số những trí thức có đầu óc tư biện hơn, anh ta xuất hiện chỉ đơn thuần như là một người biện hộ nhút nhát về những cái như chúng vốn thế; đồng thời anh ta sẽ bị những người làm công việc thực tiễn sa thải vì là một nhà lí luận không thực tế. Anh ta không đủ cấp tiến đối với những người biết chỉ cái thế giới nơi “dễ cùng nhau chia sẻ các ý tưởng” [with ease together dwell the thoughts] và quá cấp tiến đối với những người chỉ thấy “khó sống cùng với những phần tử gây ra va chạm” [hard in space together clash the things]. Nêu lợi dụng sự ủng hộ mà anh ta có thể có được từ những người làm công việc thực tiễn, anh ta hầu như chắc chắn sẽ [cảm thấy mình] tự đánh mất uy tín đối với những người mà anh ta phụ thuộc vào để truyền bá các ý tưởng của mình. Đồng thời anh ta cũng sẽ cần phải vô cùng cẩn trọng để tránh xa bất cứ thứ gì giống như sự ngông cuồng hay cường điệu. Trong khi chưa có nhà lí luận xã hội chủ nghĩa nào được biết đến lại cảm thấy mình tự đánh mất uy tín với các bạn hữu ngay cả bằng những đề xuất ngu ngốc nhất thì người theo chủ nghĩa tự do truyền thống sẽ tự nguyền rủa mình mỗi khi đưa ra một gợi ý không thể thực hiện được. Thế mà đối với giới trí thức anh ta vẫn được xem là chưa đủ tư biện hay đủ phiêu lưu, và những đề xuất thay đổi cũng như cải thiện cấu trúc xã hội mà anh ta cần phải đưa ra sẽ có nội dung có vẻ như là bị hạn chế khi so với cái mà trí tưởng tượng ít bị cản trở hơn của giới trí thức nhào nặn ra.
Chí ít ở một xã hội trong đó những điều kiện chính yếu cần thiết cho quyền tự do đã có rồi và những điều mà các cải thiện tiếp theo cần phải quan tâm là những điểm so sánh chi tiết thì cương lĩnh tự do có thể chẳng còn chút sức mê hoặc nào của một phát minh mới. Việc thấu hiểu được những cải thiện mà cương lĩnh này mang lại đòi hỏi lượng tri thức về sự vận hành của xã hội hiện tồn nhiều hơn mức mà người trí thức trung bình có được. Việc thảo luận những cải thiện này cần phải được tiến hành ở một mức độ thực tiễn hơn so với mức độ cần cho sự thảo luận về các cương lĩnh cách mạng hơn, vì thế khiến nó có một cục diện kém quyến rũ hơn đối với giới trí thức và có khuynh hướng đưa vào các yếu tố khiến cho người tham gia thảo luận cảm thấy bị công kích trực tiếp. Những người thực sự am tường sự vận hành của xã hội hiện thời lại thường là người quan tâm đến việc duy trì các đặc tính khu biệt của xã hội đó, những cái có lẽ không thể bảo vệ được bằng các nguyên lí chung. Không giống như người đi tìm một trật tự tương lai hoàn toàn mới mẻ và người thường giao phó mình cho nhà lí luận dẫn dắt, những người vốn tin vào trật tự hiện tồn lại thường xuyên nghĩ rằng họ hiểu nó tốt hơn bất cứ nhà lí luận nào và kết quả là họ có khuynh hướng bác bỏ bất cứ cái gì khác lạ và có tính lí thuyết.
Khó khăn trong việc kiếm tìm sự ủng hộ chân thật và vô tư cho một chính sách có hệ thống vì tự do không phải là mới. Sự tiếp nhận một cuốn sách mới đây của tôi2 thường gợi cho tôi nhớ lại về một đoạn mà Lord Acton đã mô tả từ rất lâu về việc vì sao “trong mọi thời đại những người bạn chân thành của tự do lại luôn ít ỏi, và những thắng lợi của nó lại luôn là do các thiểu số, những người đã thắng thế nhờ kết hợp mình với các trợ thủ có mục tiêu khác với mình; và sự liên kết vốn dĩ luôn nguy hiểm này đôi khi đã chuốc họa do nó đem đến các nguyên cớ chính đáng cho những người đối lập tấn công lại...”3. Mới đây, một trong những nhà kinh tế học Mĩ tài ba nhất đang còn sống đã than phiền bằng giọng điệu tương tự rằng nhiệm vụ chính của những người tin vào các nguyên lí cơ bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa là thường xuyên phải chống lại các nhà tư bản để bảo vệ hệ thống này - thực ra các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa tự do vĩ đại, từ Adam Smith đến nay, đã luôn biết điều này.
Rào cản lớn nhất chia tách những người làm công việc thực tiễn vốn thực tâm với sự nghiệp tự do khỏi các thế lực quyết định tiến trình phát triển trong lĩnh vực tư tưởng chính là sự ngờ vực sâu sắc của họ đối với công việc tư biện lí thuyết và khuynh hướng tư tưởng chính thống của họ; điều này, hơn bất cứ thứ gì khác, tạo ra một hàng rào hầu như không thể vượt qua nổi giữa họ và những người trí thức muốn hiến dâng cho cùng sự nghiệp, những người mà sự giúp đỡ của họ là không thể thiếu được nếu muốn sự nghiệp thành công. Mặc dù đối với những người bảo vệ một hệ thống thì khuynh hướng này có lẽ là tự nhiên bởi hệ thống đó đã chứng thực được chính nó trong thực tiễn, và đối với những người ấy, sự biện minh (justification) trí tuệ dường như là không còn mấy quan trọng nữa; nhưng đó chính lại là tai họa cho sự sống còn của hệ thống bởi khuynh hướng này phớt lờ sự ủng hộ mà hệ thống cần nhất. Tính chính thống thuộc bất cứ loại nào - tức bất kì sự bao biện nào cho rằng một hệ thống tư tưởng là chân lí cuối cùng và cần phải được chấp nhận một cách không nghi vấn như là một tổng thể - là một loại quan niệm chắc chắn đối địch với tất cả giới trí thức, bất kể quan điểm của họ về các vấn đề cụ thể là thế nào. Bất cứ hệ thống nào đánh giá con người căn cứ vào sự tuân thủ trọn vẹn của họ đối với một tập hợp các quan điểm cố định, theo “sự tuyệt hảo” của chúng hay mức độ mà họ có thể tin cậy được để giữ gìn những quan điểm đã được chấp nhận trên tất cả các khía cạnh sẽ tự đánh mất đi sự ủng hộ mà nếu thiếu nó thì chẳng tập hợp tư tưởng nào có thể duy trì được ảnh hưởng của mình trong xã hội hiện đại. Khả năng để phê phán những quan điểm đã được chấp nhận, để khai phá các triển vọng mới và để trải nghiệm những quan niệm mới, tạo ra bầu không khí mà thiếu nó thì người trí thức không thể hít thở. Một sự nghiệp không tạo ra môi trường để nuôi dưỡng các nhu cầu này sẽ không thể nhận được sự ủng hộ nào từ người trí thức và vì thế tất bị thất bại trong bất cứ xã hội nào mà, chẳng hạn như xã hội chúng ta, nương tựa vào các dịch vụ của anh ta.
VII.
Có lẽ một xã hội tự do như chúng ta đã biết mang trong mình các lực tự hủy hoại chính nó, rằng một khi đã giành được quyền tự do nó được coi như là một cái gì đó đương nhiên và không còn được coi trọng nữa, và rằng sự phát triển tự do của các tư tưởng, điều cốt yếu của một xã hội tự do, sẽ có xu hướng hủy hoại những nền tảng mà nó phụ thuộc vào. Không còn mấy nghi ngờ rằng, ở các nước tương tự như Mĩ, lí tưởng về quyền tự do ngày nay thực sự kém hấp dẫn giới trẻ so với ở các nước nơi họ đã biết được ý nghĩa của nó khi mất nó. Trong khi ở Đức cũng như nhiều nơi khác, nơi thanh niên chưa bao giờ biết đến một xã hội tự do, có dấu hiệu rõ ràng cho thấy nhiệm vụ xây dựng một xã hội tự do có thể trở nên lí thú và quyến rũ như bất cứ cương lĩnh xã hội chủ nghĩa nào đã xuất hiện trong một trăm năm vừa qua. Khi nói chuyện với các sinh viên Đức về các nguyên lí của một xã hội tự do, một diễn giả nào đó có thể bắt gặp những người tham dự nhanh nhạy hơn và thậm chí nhiệt tình hơn so với mức anh ta có thể hi vọng tìm thấy ở bất cứ nền dân chủ phương Tây nào; đấy là một thực tế có vẻ khác thường nhưng là điều mà nhiều người đã trải nghiệm. Tại Anh quốc cũng đã xuất hiện trong thanh niên mối quan tâm mới về các nguyên lí của một chủ nghĩa tự do thật sự, điều chắc chắn đã không tồn tại vài năm trước đây.
Phải chăng điều này có nghĩa là quyền tự do chỉ được coi trọng khi nó bị đánh mất, rằng thế giới ở mọi nơi phải kinh qua một pha tăm tối của chủ nghĩa toàn trị trước khi các lực lượng tự do có thể lấy lại được sức mạnh? Có thể là thế, nhưng tôi hi vọng không nhất thiết phải vậy. Thế nhưng, chừng nào trong các giai đoạn dài hơn những người quyết định công luận vẫn tiếp tục bị lôi cuốn bởi các lí tưởng của chủ nghĩa xã hội thì chiều hướng đó sẽ còn tiếp tục. Nếu muốn tránh một sự tiến triển như vậy, chúng ta phải có khả năng đưa ra một cương lĩnh tự do mới có sức quyến rũ trí tưởng tượng. Chúng ta phải khiến cho việc xây dựng một xã hội tự do một lần nữa là một công cuộc phiên lưu trí tuệ, một sự dấn thân quả cảm. Cái chúng ta thiếu là một tư tưởng không tưởng (Utopia) tự do, một cương lĩnh không nhắm tới việc bảo vệ đơn thuần các thứ như chúng vốn thế, cũng chẳng phải là một loại dung dịch pha loãng của chủ nghĩa xã hội, mà là một chủ nghĩa cấp tiến tự do thật sự, loại chủ nghĩa không có chỗ cho tính khí thất thường của kẻ mạnh (kể cả các công đoàn), không quá thực tiễn một cách khắt khe, và không giới hạn mình ở cái ngày nay tỏ ra là khả dĩ về mặt chính trị. Chúng ta cần các lãnh tụ trí thức, những người miễn dịch được với mật ngọt của quyền lực và ảnh hưởng và sẵn sàng làm việc cho một lí tưởng, dẫu triển vọng hiện thực hóa trong giai đoạn trước mắt của nó có nhỏ nhoi đến nhường nào. Họ phải là những người sẵn sàng gắn mình vào các nguyên lí và tranh đấu vì sự hiện thực hóa chúng một cách đầy đủ, dẫu còn xa đến đâu. Họ phải để những nhượng bộ thực tiễn cho các chính trị gia. Thương mại tự do và quyền tự do về cơ hội có lẽ vẫn là các lí tưởng gây phấn khích cho trí tưởng tượng của đông người, nhưng nếu chỉ là một sự “tự do thương mại hợp lí” hay một “sự nới lỏng kiểm soát” thì đó là những thứ chẳng đáng trọng về mặt trí tuệ cũng chẳng gây được cảm hứng cho bất cứ sự nhiệt tình nào.
Bài học chủ yếu mà người theo chủ nghĩa tự do chân chính phải học từ sự thành công của những người xã hội chủ nghĩa là, chính sự dũng cảm của họ để trở thành người không tưởng đã khiến họ có được sự ủng hộ của giới trí thức và vì thế có được một ảnh hưởng lên công luận, cái hằng ngày làm cho cái chỉ mới đây còn có vẻ hoàn toàn xa vời trở nên có thể. Những người chỉ biết vùi mình vào cái vẻ thực tiễn của tình trạng dư luận hiện tồn thường xuyên thấy rằng ngay cả điều này cũng mau chóng trở thành không thể trên khía cạnh chính trị do những sự thay đổi trong công luận, cái mà họ đã chẳng làm gì để định hướng. Viễn cảnh của tự do quả thực vẫn còn đen tối trừ phi chúng ta có thể làm cho những nền tảng triết lí của một xã hội tự do một lần nữa lại trở thành một chủ đề trí tuệ sống động, và việc thực hiện nó trở thành một nhiệm vụ thách thức tài khéo léo cũng như trí tưởng tượng của những cái đầu hoạt bát nhất của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta có thể lấy lại niềm tin vào sức mạnh của các tư tưởng, cái đã là biểu tượng của chủ nghĩa tự do ở đỉnh điểm của nó, cuộc chiến vẫn chưa bị thua. Sự nghiệp phục hưng trí tuệ của chủ nghĩa tự do đã lên đường ở nhiều nơi trên thế giới rồi. Liệu có kịp thời không?
Chú thích:
(1) Ví dụ dễ thấy nhất gần đây về kiểu quy kết như vậy là hiện tượng có một số bình luận về tác phẩm Economic Policy for a Free Society [Chính sách kinh tế cho một xã hội tự do) (1948) của cố tác giả Henry Simons cho rằng công trình vốn có hơi hướng tự do phi chính thống này là “xã hội chủ nghĩa”. Ai đó không nhất thiết phải đồng ý với tất cả nội dung của công trình này, và thậm chí ai đó có thể coi một số gợi ý trong đó là không tương thích với một xã hội tự do, nhưng vẫn cần phải thừa nhận rằng công trình này là một trong những đóng góp quan trọng nhất được đưa ra gần đây cho vấn đề của chúng ta và đúng là loại công trình đòi hỏi chúng ta cần phải bắt đầu thảo luận từ những vấn đề nền tảng. Ngay cả những người kịch liệt phản đối một số gợi ý của nó cũng nên hoan nghênh tiếp nhận nó như là một đóng góp nêu ra được các vấn đề trung tâm của thời đại chúng ta một cách rõ ràng và dũng cảm.
(2) Tác phẩm Đường về nô lệ của F. A. Hayek, xuất bản lần đầu năm 1944 (ND).
(3) Acton, The History of Freedom, I (1922).
Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch.