[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 2)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 2)

TỘI ÁC

Tội ác là một vấn đề xã hội quan trọng, nhiều quan điểm và li thuyết khác nhau đã được đưa ra nhằm giải thích nguyên nhân m của nó. Những phương pháp tiếp cận khác nhau này có thể được chia thành hai loại, kinh tế và môi trường, cả hai đều được coi là nền tảng cho chính sách công.

Hiểu biết chung về hành động của con người được cung cấp bởi phương pháp tiếp cận theo lối thị trường là đặc biệt có giá trị trong việc đánh giá những phương pháp tiếp cận này. Nó cũng cung cấp một khuôn khổ, trong đó những cuộc điều tra thực nghiệm và văn bản chính sách có thể được đánh giá và kết hợp lại với nhau. Cấm đoán mang đến một nghiên cứu chuyên đề có giá trị nhằm nâng cao hiểu biết của chúng ta về tội phạm và kiểm soát xã hội.

Hai quan điểm về tội ác

Những khái niệm ban đầu về nguyên nhân của tội phạm được xây dựng một cách vững chắc trên những yếu tố kinh tế. Thomas More, Beccaria-Bonesana, Adam Smith, và Frederick Engels đều cho rằng tội phạm có liên quan tới đói nghèo và những điều kiện kinh tế khác. Nhà kinh tế học-triết gia theo trường phái công lợi, Jeremy Bentham (1896), lại lập luận rằng hành vi phạm tội là hoàn toàn duy lí. Phân tích niềm vui-so-với-đau khổ của Bentham kết hợp cả chi phí cơ hội thấp mà người nghèo phải trả khi thực hiện hành động tội ác với những cơ hội có giá trị tương đổi cao mà hành động tội phạm mang lại cho họ. W. A. Bonger (1916) phát hiện ra rằng tác phẩm của một số nhà thống kê học Pháp thời kì đầu ủng hộ cho mối quan hệ giữa tội phạm và điều kiện kinh tế.

Mặc dù, về bản chất, tội ác được coi là mang tính cá nhân và kinh tế, tất cả các nhà bình luận ban đầu này đều kêu gọi các giải pháp, về bản chất, trước hết là của chính phủ. Ngay cả Adam Smith ([1776] 1976) cũng đưa ra lí lẽ nhằm ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực tội ác, vì ông cho rằng đẩy là một trong ba nhiệm vụ cơ bản của chính phủ, mặc dù trước đó ông đã khẳng định hoàn toàn ngược lại.

Không có gì làm băng hoại con người hơn là sự phụ thuộc, trong khi sự tự chủ làm gia tăng tính trung thực của người dân. Buôn bán và sản xuất hàng loạt, những tác nhân đem lại cho người ta tính tự chủ, là chính sách tốt nhất trong việc ngăn ngừa tội phạm. Không có cách nào có thể tạo cho những người bình thường mức lương tốt như thế, và kết quả là tính trung thực trong cách cư xử sẽ lan tràn trong cả nước. Không ai có điện rồ đến mức phơi mình ra đường trong khi có thể kiếm được miếng ăn ngon hơn bằng cách làm việc cần cù và trung thực. (Smith [1763] 1956, 155-56).

Nhận xét của Smith vào năm 1776 dường như có ảnh hưởng mạnh đối với chính quyền Anh. Tại Ireland, những thử nghiệm trong việc sử dụng lực lượng cảnh sát được bắt đầu vào năm 1786, còn tại Anh, bằng hình thức ít nghiêm khắc hơn, được bắt đầu bằng Luật Cảnh sát Quốc gia năm 1829. Như Stanley H. Palmer (1988) đã chỉ ra, nhiều lực lượng cảnh sát quốc gia được thành lập nhằm đối phó với những người chống đối chính phủ, chứ không phải để chiến đấu với tội ác thông thường.

Lí thuyết thứ hai về hành vi tội phạm nhấn mạnh yếu tố môi trường và di truyền, phản bác giá trị của lí thuyết kinh tế về tội phạm, và tuyên bố rằng hành vi tội phạm có liên quan đến những đặc điểm như cấu hình của hộp sọ, hoạt động phản xạ, chủng tộc, tuổi tác, giới tính và tầng lớp xã hội. Cuối thế kỉ XIX, mô hình xã hội học này bắt đầu thế chỗ cho phương pháp tiếp cận kinh tế học. Ví dụ, Cesare Lombroso cho rằng bọn tội phạm là một phân loài có những đặc tính đặc biệt như là nét mặt đặc biệt hay cánh tay dài một cách bất thường (được mô tả trong Pyle 1983, 5).

Môi liên hệ giữa việc sử dụng ma túy với tội phạm sẽ được phân loại theo cách tiếp cận xã hội học với hành vi tội phạm vì nó dựa trên quan sát và xác suất hơn là lí thuyết. Lí thuyết xã hội học này khác với những phiên bản trước ở chỗ nó gán nguyên nhân của tội ác cho các yếu tố môi trường, chứ không phải yếu tố di truyền.

Timberlake (1963, 56-61) lưu ý rằng các nhà xã hội học cấp tiến và các nhà tội phạm học, những người tán thành quan điểm này phản đối rượu vì nó liên quan đến nhiều hành động tội phạm và hành vi đáng chê trách. Ví dụ, trong một công trình nghiên cứu các tù nhân, John Koren (1899) kết luận rằng rượu là nguyên nhân duy nhất của 16% tất cả các tội ác, nguyên nhân chính của 31% tội ác, và một trong những nguyên nhân của 50% tội ác. Lí thuyết này là một con dao hai lưỡi, mặc dù nó đã giúp thiết lập những biện pháp cấm đoán, song nó lại loại bỏ nguyên nhân và tội lỗi khỏi hành động tội phạm. Các tù nhân bắt đầu phóng đại vai trò của rượu trong khi họ phạm tội và lờ đi những nguyên nhân nghiêm trọng hơn (Timberlake 1963, 58). Trong những năm mới cấm cần sa, một số tù nhân đã kiến nghị khoan hồng vì họ đã sử dụng cần sa, họ nói rằng cần sa đã khiến họ phạm tội, chứ không phải là bản thân họ muốn làm ác.

Quan điểm Marxist về tội ác là lời biện hộ truyền thống cho lí thuyết Marxist. Là một nhánh của phương pháp tiếp cận theo lối môi trường, nó chứa đựng thành tố của phương pháp tiếp cận kinh tế học, coi tội ác là phản ứng của giai cấp vô sản trước sự phát triển kinh tế. Không phải là di truyền, không phải đặc điểm cơ thể hay sử dụng ma túy, mà giai cấp xã hội là yếu tố quyết định những người phạm tội tiềm năng.

Trái ngược với Adam Smith hồi trẻ ([1763] 1956), phát triển kinh tế bị coi là nguyên nhân của tội ác chứ không phải là biện pháp khắc phục. Những người theo chủ nghĩa Marxist coi tỉ lệ tội phạm gia tăng trong các nước “tư bản” và khu vực thành thị là bằng chứng về sức sống của triết học và niềm tin vào chủ
nghĩa Marx.

Kinh tế học về tội ác

Theo Paul H. Rubin (1978, 38), “Cho đến khoảng năm 1968, phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học về tội ác đều do các nhà xã hội học thực hiện. Tiền đề cơ bản của công trình này dường như là những người tội phạm khác với những người không phạm tội và nghiên cứu chủ yếu là tìm kiếm sự khác biệt giữa những người tội phạm với người bình thường”. Gary S. Becker (1968) tái lập việc nghiên cứu về tội phạm và hình phạt như là những hành động duy lí và có tính kinh tế. Đóng góp của ông đã bị các nhà nghiên cứu khác nghi ngờ, được trau chuốt, kiểm tra và mở rộng. Những công trình nghiên cứu này đã giữ thế thượng phong trong phương pháp tiếp cận tội phạm hiện đại và đã có những ảnh hưởng rõ ràng đối với chính sách công. Ví dụ, các tác phẩm của Isaac Ehrlich (1973, 1975) dựa trên công trình của Becker đã được Tòa án Tối cao trích dẫn trong quá trình tái lập án tử hình. Ba giáo sư luật từng giúp mở rộng phương pháp tiếp cận tội ác theo lối kinh tế học của Becker (Robert Bork, Richard Posner, và Antonin Scalia) được bổ nhiệm vào những vị trí cao trong ngành tòa án.

Mô hình phân phối-thời gian (1968) về hành vi phạm tội của Becker được xây dựng dưới dạng độ thỏa dụng kì vọng theo lối chủ quan của cá nhân. Cá nhân được hướng dẫn xây dựng những suy nghĩ chủ quan về khả năng bị bắt, khả năng và mức độ nghiêm khắc của hình phạt. Những tội phạm tiềm năng cân nhắc giá trị chủ quan của lợi ích dự kiến và cái giá phải trả khi thực hiện hành vi tội phạm. Những kết quả thu được từ mô hình này ngụ ý rằng việc tăng khả năng bị bắt và mức độ nghiêm trọng của sự trừng phạt sẽ ngăn chặn được tội ác.

Việc mô phỏng rõ ràng tội ác qua các thuật ngữ kinh tế bộc lộ một số vấn đề. Ví dụ, khó có thể xác định cung tội ác trên thị trường và thậm chí còn khó xác định cầu tội ác trên thị trường hơn. Thị trường tội ác hiếm khi xuất hiện và đơn giản là không thể gọi những tội ác như hiếp dâm, cướp của, giết người là giao dịch tự nguyện được. Những mô hình này chuyển những lợi ích do tội ác mang lại thành những thuật ngữ tiền bạc đơn thuần, mặc cho thực tế là những lợi ích của tội ác xuất phát từ sự giận dữ và bạo lực mang lại không phải tiền bạc và rất khó định nghĩa bằng các thuật ngữ tiền tệ.

Những mô hình này được xây dựng trên những đánh giá theo lối chủ quan, nhưng trong “kiểm định” kinh tế lượng, người ta lại áp dụng những tiêu chuẩn khách quan, hay tiêu chuẩn thực tế về xác suất bị bắt giữ và trừng phạt. Những sai lệch so với lí thuyết như vậy cần phải được xác minh bằng thực nghiệm lại thường che dấu những khía cạnh quan trọng của hành vi phạm tội, trừng phạt, hành vi của cảnh sát và tổ chức tội phạm, do đó hạn chế nhận thức của chúng ta về tội ác. Ví dụ, Samuel Cameron (1989) và một số nhà nghiên cứu khác đã tìm thấy những mối tương quan khó hiểu giữa tội ác, số vụ bắt giữ, và nguồn lực của cảnh sát “chủ yếu phải được giải thích bởi sự thất bại của các nhà kinh tế học trong việc đánh giá suy nghĩ chủ quan của tội phạm trong mô hình thỏa dụng được kì vọng theo lối chủ quan” (36).

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường