[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 3)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 4: Hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp (Phần 3)

TÁC ĐỘNG CỦA CẤM ĐOÁN ĐỐI VỚI HIỆU LỰC CỦA MA TÚY

Loại thuế và định nghĩa hàng hóa bị đánh thuế dẫn đến những ảnh hưởng khác nhau đối với chất lượng và các thuộc tính chứa trong sản phẩm. Các đạo luật cấm đoán và việc thực thi những đạo luật này có vai trò tương tự nhau trong việc xác định thành phần, chất lượng, sản lượng và giá cả của sản phẩm. Các chỉ thị và sự khích lệ của các quan chức thi hành luật pháp sẽ ảnh hưởng đến kết quả của thị trường, ví dụ như thành phần của sản phẩm.

Cấm đoán thường tạo ra môi trường mang tính ăn thua hơn là thuế được thu một cách rõ ràng. Những người tham gia mà bị bắt sẽ bị mất rất nhiều: mất thu nhập, bị phạt tiền, bị tịch thu, và bị tù. Những người không bị bắt thu được những món lời lớn về tiền bạc. Tuy nhiên, tất cả những người tham gia thị trường đều phải chịu rất nhiều rủi ro. Thuế được đánh giá như một hàm số của các mức hình phạt và khả năng bị bắt và kết án.

Luật cấm thường bao gồm ba phần. Thứ nhất, sản phẩm phải có một số lượng tối thiểu chất ma túy nào đó thì mới bị coi là bất hợp pháp. Trong giai đoạn cấm rượu, các sản phẩm có chứa hơn 0,5% cồn là bất hợp pháp. Sản phẩm có chứa bất kì lượng heroin nào có thể bị phát hiện được đều là bất hợp pháp. Thứ hai, hình phạt thường được áp dụng trên cơ sở trọng lượng hàng hóa. Ví dụ, ở bang Indiana, người sở hữu đến 30 gram cần sa có thể bị phạt tối đa là 5.000 đô-la và một năm tù. Sở hữu hơn 30 gram có thể bị phạt 10.000 đô-la và 2 năm tù giam. Cuối cùng, hình phạt được áp dụng cho cả sản xuất, phân phối và sở hữu.

Các đạo luật cấm luôn luôn định nghĩa các sản phẩm theo hiệu lực tối thiểu (không hạn chế mức tối đa). Ngoài ra, lô hàng càng lớn thì hình phạt càng nặng. Vì hình phạt dựa trên trọng lượng của một lô hàng, các nhà cung cấp sẽ giảm bớt những thuộc tính không bị đánh thuế nếu những thuộc tính này được tách khỏi sản phẩm1. Hiệu lực không bị giới hạn và có khả năng sẽ tăng lên khi các nhà cung cấp tìm cách gia tăng giá trị của lô hàng nhằm giảm bớt gánh nặng tương đối của thuế khóa. Do đó khía cạnh này của luật cấm đoán có tác dụng như thuế không đổi đánh vào một đơn vị sản phẩm.

Bên cạnh luật cấm đoán, khả năng bị bắt đóng một vai trò quan trọng trong rủi ro. Hiệu quả của việc thực thi pháp luật trong tương quan với qui mô của thị trường ma túy chợ đen giúp xác định (phần nào) khả năng bị bắt. Những người cung cấp các loại ma túy bất hợp pháp đánh giá việc thực thi pháp luật và hình phạt nhằm xác định mức độ rủi ro mà họ phải đối mặt và phân bổ nguồn lực của mình để tránh bị bắt.

Muốn tránh bị bắt thì quan trọng nhất là che giấu lô hàng. Việc này có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức, nhưng kích thước của lô hàng là một yếu tố cơ bản. Kích thước liên quan đến trọng lượng và sẽ hoạt động như một loại thuế không đổi đánh vào mỗi đơn vị, khuyến khích người ta sản xuất những loại có hiệu lực cao hơn loại đang có trên thị trường. Nỗ lực che giấu sẽ gia tăng ở ngoại vi khi nguồn lực thực thi pháp luật hay hiệu quả thực thi pháp luật gia tăng. Vì vậy mà những yếu tố này sẽ giúp nâng cao chất lượng và kết quả là giá cao hơn so với dự đoán của các mô hình chất lượng không đổi. Hiệu lực của ma túy gia tăng và sự gia tăng này chịu trách nhiệm chính cho sự tăng “chất lượng” tổng thể.

Cấm đoán có thể tác động như một loại thuế đánh vào giá trị của hàng hóa, đấy là kết quả của các chỉ thị của cơ quan lập pháp và sự khuyến khích của cán bộ thực thi pháp luật và thẩm phán. Lindsey (1976) chỉ ra rằng các quan chức thường khuyến khích người ta làm ra những loại hàng hóa và dịch vụ với các thuộc tính mà Quốc hội mong muốn và dễ theo dõi, trong khi tránh làm ra những món hàng hóa và dịch vụ với những thuộc tính mà Quốc hội không muốn và không theo dõi được. Ví dụ, Lindsey thấy rằng trong khi các bệnh viện Hội cựu chiến binh đưa ra kết quả có thể đo lường được (bệnh nhân × ngày) với chi phí thấp, thì bệnh viện tư nhân tăng tỉ lệ nhân viên/bệnh nhân, bác sĩ “giỏi hơn”, thời gian chữa trị ngắn hơn, ít phải xếp hàng và chờ đợi hơn, và tiện nghi phù hợp với môi trường hơn. Như vậy là, thuế làm thay đổi các thuộc tính của sản phẩm như thế nào thì động cơ của các quan chức cũng có thể làm thay đổi các thuộc tính của sản phẩm như thế ấy.

Cùng với cấm đoán, các loại hình dịch vụ mà các quan chức bảo vệ pháp luật cung cấp cho Quốc hội và cơ quan lập pháp có thể có ảnh hưởng quan trọng đối với sự kết hợp của các thuộc tính trong các loại ma túy bất hợp pháp. Một ví dụ về hành vi của những cơ quan quản lí hành chính quan liêu là kỹ thuật đánh giá số tiền thu được, tính bằng đô-la, của số ma túy bị tịch thu. Giá trị của số ma túy bị tịch thu được tính theo giá trung bình “ngoài phố”. Giá “ngoài phố” là giá cao nhất cho một đơn vị vì nó là bước cuối cùng trong chuỗi phân phối sản phẩm. Cách tính này cũng tương tự việc người nông dân biết mỗi chiếc bánh mì cần bao nhiêu bột rồi nhân giá bán lẻ bánh mì (mỗi cân) với số lúa mì mới thu hoạch, có cả trấu, nhằm xác định giá trị vụ thu hoạch của mình.

Tương tự như vậy, các quan chức thực thi pháp luật có thể coi việc bắt giữ được những lô hàng lớn hay có hiệu lực mạnh là những lô hàng làm gia tăng lợi ích của chính họ, nó cho các cơ quan quản lí hành chính và công chúng biết về hiệu quả công tác của họ và có thể làm cho xã hội đòi hỏi thêm các sản phẩm của họ (thực thi pháp luật phòng chống ma túy). Sự tập trung nguồn lực phòng chống ma túy vào việc ngăn chặn các loại ma túy có hiệu lực cao sẽ làm giảm nguy cơ trong việc vận chuyển những loại ma túy có hiệu lực thấp và ít nguy hiểm như cần sa và làm tăng nguy cơ trong việc vận chuyển những loại ma túy có hiệu lực cao và nguy hiểm hơn như heroin. Nguy cơ tăng thì giá trị trường cũng tăng theo. Động cơ này cũng tạo ra ảnh hưởng tương tự như thuế đánh theo giá trị hay thuế đánh theo hiệu lực.

Trong hệ thống tòa án cũng có thể có những động cơ tương tự như thế. Vận chuyển các loại ma túy hiệu lực cao nguy hiêm hơn có thể ảnh hưởng đến bản án. Hệ thống tòa án có một số quyền trong việc xác định hình phạt. Theo hướng dẫn của tòa án liên bang hiện nay, lô hàng ma túy có hiệu lực cao hơn có thể bị phạt nhiều tiền hơn và phạt tù dài hạn hơn. Như vậy là, tòa án có thể hành động như là tác nhân ngăn chặn những loại ma túy có hiệu cao và như một loại thuế đánh vào giá trị hàng hóa.

Các động cơ của lực lượng thực thi pháp luật và hệ thống tòa án, tương tự như thuế đánh vào giá trị hàng hóa, làm cho giá cả và chất lượng thấp hơn kì vọng, nhưng có hạn chế hoặc làm hiệu lực của ma túy giảm đi hay không? Những động cơ này – hoặc thuế đánh vào giá trị – có liên quan về mặt thực nghiệm, như trong cuộc điều tra của Feenstra (1988) về thuế nhập khẩu đánh vào xe bán tải của Nhật Bản không?

Cần phải nói một số điểm liên quan đến sự tồn tại hoặc sức mạnh của thuế đánh vào giá trị hàng hóa đối với hiệu lực của ma túy. Trước hết, có khả năng là các quan chức thực thi pháp luật được lợi hơn khi bắt được lô hàng lớn hơn vì nó làm tăng giá trị ước tính theo giá trên đường phố hơn là bắt được lô hàng có hiệu lực cao hơn vì nó không làm tăng gia trị ước tính. Thứ hai, không có lí do để tin rằng các quan chức thực thi pháp luật có những phương tiện đủ sức phân biệt giữa một lô hàng hiệu lực cao và lô hàng hiệu lực thấp của cùng một loại ma túy, chỉ có mắt xích trong chuỗi phân phối bị tịch thu mới biết mà thôi. Thứ ba, trong khi các quan tòa có một số tự do trong khi kết án phù hợp với hiệu lực của ma túy, nhưng quyền tự do này lại bị giới hạn bởi cách giải thích mục đích của bị đơn nằm trong khuôn khổ hình phạt dựa trên trọng lượng món hàng. Cuối cùng, người ta cho rằng thuế thuần túy đánh vào giá trị hàng hóa có thể sẽ không có ảnh hưởng đáng kể đối với hiệu lực mà có ảnh hưởng theo tỉ lệ lên tất cả các thuộc tính của sản phẩm.

Việc thực thi pháp luật có thể tạo ra một loại thuế đánh vào giá trị trong thị trường bất hợp pháp của nhiều loại ma túy. Tập trung vào các loại ma túy nguy hiểm hơn, thí dụ như heroin, sẽ có tác dụng tương tự như thuế đánh theo giá trị hàng hóa trên toàn bộ thị trường ma túy bất hợp pháp, vì khả năng bắt một đơn vị heroin sẽ lớn hơn khả năng bắt một đơn vị cần sa. Khía cạnh này của việc thực thi cấm đoán không hạn chế được hiệu lực giống như thuộc tính của sản phẩm – nó chỉ hướng những nguồn lực lớn hơn và hình phạt nặng nề hơn vào những loại ma túy nguy hiểm hơn mà thôi. Kết quả được chờ đợi cũng tương tự như khi áp dụng hình phạt nặng nề hơn đối với heroin so với hình phạt đối với cần sa. Chúng ta thường kì vọng rằng hình phạt càng nặng đối với heroin thì sẽ càng dẫn đến những loại heroin có hiệu lực cao hơn so với sự gia tăng hiệu lực của cần sa, là thứ bị phạt nhẹ hơn.

Nhiều nhân tố, thí dụ như định nghĩa của các loại ma t hợp pháp, hình phạt dựa trên trọng lượng và khả năng bị bắt, không hạn chế được hiệu lực và vì vậy mà dẫn đến những loại ma túy có hiệu lực cao hơn. Chỉ có quyền phán quyết bị hạn chế của tòa án là tạo được hạn chế nhỏ đối với hiệu lực của ma Trên thị trường có nhiều loại ma túy bất hợp pháp, sự khác biệt về hình phạt và động cơ của các quan chức thực thi pháp luật làm gia tăng ảnh hưởng của cấm đoán đối với heroin và giảm ảnh hưởng đối với hiệu lực của các loại ma túy như cần sa.

Vì vậy, đánh giá rủi ro sẽ tạo động lực mạnh mẽ trong việc làm gia tăng hiệu lực của các loại ma túy bất hợp pháp. Theo kinh nghiệm, chi phí cho rủi ro mà cấm đoán gây ra là tương đối cao so với chi phí sản xuất và phân phối trong môi trường hợp pháp. Theo Edward Erickson (1969), nếu coi cấm đoán là một loại thuế thì thuế suất đối với heroin được ước tính là 20.000%. Giá thành của một ounce cần sa đắt hơn một trăm lần giá thuốc lá có trọng lượng tương đương trên thị trường. Thuế suất cao như vậy rõ ràng là có tác động lớn đến sự pha trộn các thuộc tính của sản phẩm.

Chú thích:

(1) Ví dụ của một thuộc tính như thế là chất dùng để giảm nồng độ cocaine trong sản phẩm tinh khiết để đạt được hiệu lực mà người tiêu dùng mong muốn khi không bị cấm đoán. Điều này được gọi là “cắt giảm”. “Cắt giảm” hiệu lực chắc chắn sẽ diễn ra, nhưng chỉ diễn ra khi sản phẩm đã đến tay người sử dụng cuối cùng và nguy cơ bị bắt và bị phạt giảm. Việc cắt giảm có thể được những cá nhân khác nhau trong chuỗi phân phối thực hiện, và một số “cắt giảm” khác nhau có thể được thực hiện nhằm điều chỉnh hiệu lực của ma túy.

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường