[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 3)

[Kinh tế học cấm đoán] Chương 3: Lý thuyết về cấm đoán (Phần 3)

Tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường

Phương pháp tiếp cận của trường phái Áo hay tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường (market process approach) trong phân tích kinh tế, được trình bày kĩ lưỡng trong các tác phẩm của Mises ([1929] 1977, [1936] 1951, 1922, [1949] 1977), F.A. Hayek (1937, 1945), và Israel M. Kirzner (1973, 1985). Phương pháp tiếp cận này bắt đầu với sự thật hiển nhiên: những hành động của con người là có mục đích và nhằm gia tăng độ thỏa dụng cá nhân, trong bối cảnh tồn tại sự bất trắc và thông tin không hoàn hảo. Kinh tế phát triển nhờ trao đổi, học tập, kinh doanh, cách tân, và sự tiến hóa của các định chế. Nền kinh tế thị trường tạo ra các giải pháp cho các vấn đề xã hội, ví dụ, việc áp dụng (hoặc tiến hóa) của đồng tiền giúp giảm chi phí giao dịch. Quá trình khám phá hình thành nên những giải pháp như vậy bởi nó đòi hỏi sự tỉnh táo để có thể nắm bắt cơ hội và sự tương tác giữa rất nhiều cá nhân trong một thời gian dài.

Phương pháp tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường áp dụng một cách nhìn đa chiều về cạnh tranh, trong khi các nhà kinh tế học chính thống thường dựa vào việc đơn giản hóa những giả định, thí dụ như các sản phẩm đồng nhất. Phương pháp tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường cho rằng hàng hóa được các cá nhân đánh giá một cách chủ quan, dựa vào nhiều tính năng của sản phẩm để đánh giá. Ví dụ, một chiếc xe được đánh giá trên sở đời xe, thiết kế, kiểu dáng, màu sắc, kích thước, công suất, vật liệu chế tạo, hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu, độ tin cậy, và những tiêu chí này lại cũng có nhiều chiều kích khác nhau. Thị trường tạo ra những sản phẩm muôn màu muôn vẻ – được quyết định chủ yếu bởi lựa chọn mang tính chủ quan từ những khả năng công nghệ hiện có lúc đó.

Sự phát triển của chu trình tư bản chủ nghĩa theo hướng này cho thấy rằng các chủ doanh nghiệp làm được nhiều hơn là đưa giá cả trở về trạng thái cân bằng. Việc tìm kiếm lợi nhuận của các chủ doanh nghiệp dẫn đến cạnh tranh không chỉ về giá cả mà còn về sự thay đổi sản phẩm cũng như sự phát triển các sản phẩm mới. Các tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường coi những rối loạn của trạng thái cân bằng như là động thái khởi nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm và thị trường mới, cải thiện sản phẩm hay thông tin về sản phẩm, hoặc giảm chi phí. Ví dụ, một yếu tố quan trọng của vòng quay thị trường và phát triển kinh tế là quảng cáo. Quảng cáo làm gia tăng kiến thức về sản phẩm, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có những quyết định đúng đắn hơn đồng thời làm giảm chi phí tìm kiếm. Quảng cáo còn giúp phát triển và giới thiệu các sản phẩm mới và các sản phẩm với những đặc điểm mới.

Những thành tố của phương pháp tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường đã được tích hợp trong kinh tế học chính thống hiện đại. Một khía cạnh quan trọng của sự tích hợp này là “sự tổng hợp kinh tế vi mô hiện đại”, trong đó những yếu tố của thị trường được kết hợp với mô hình tân cổ điển. Người có đóng góp đáng kể trong lĩnh vực này là Lancaster (1966). “Phương pháp tiếp cận mới đối với hành vi của người tiêu dùng” của ông đã cải thiện nhận thức về sự khác biệt của sản phẩm, về những hàng hóa bổ sung và thay thế, về quảng cáo, và nhiều khía cạnh khác trong phân tích kinh tế, hay những vấn đề đã trở thành “lỗ đen” của mô hình tân cổ điển.

Cách tiếp cận mới này bắt đầu với khái niệm cho rằng hàng hóa kinh tế mang nhiều thuộc tính và các thuộc tính này (chứ không phải hàng hóa) mang lại thỏa dụng cho người sử dụng. Thuộc tính của hàng hóa có thể thay đổi nhằm gia tăng thỏa dụng mà hàng hóa cung cấp. Cung và cầu đối với các thuộc tính tuân theo các qui luật kinh tế bình thường và cùng với thời gian, làm gia tăng thỏa dụng của người tiêu dùng (với điều kiện việc tham gia vào thương trường là tự do).

Chủ nghĩa can thiệp và vòng quay thị trường

Chủ nghĩa can thiệp là một hình thức thay thế cho tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, có bao gồm sự kiểm soát của chính phủ hoặc định hướng những nguồn lực vốn là sở hữu tư nhân. Hình thức tổ chức phổ biến này gồm có kiểm soát giá cả và đặt ra các qui định nhằm áp đặt những chi phí trực tiếp và nặng nề lên nền kinh tế, thí dụ như tình trạng thiếu hụt và thặng dư, phi hiệu quả và lãng phí. Cấm đoán là hình thức can thiệp cực đoan của chính phủ, có ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình khám phá của chủ doanh nghiệp.

Ngoài những tác động trực tiếp của chủ nghĩa can thiệp, các nhà kinh tế còn phát hiện “những hậu quả quan trọng ngoài ý muốn” của những chính sách can thiệp, ví dụ như sự phân biệt cực đoan đến từ luật tiền lương tối thiểu. Chi phí để khắc phục những hậu quả không lường trước thường lớn hơn chi phí trực tiếp của chủ nghĩa can thiệp hay những lợi ích mà người ta nghĩ rằng các chính sách can thiệp sẽ mang lại. Các nhà hoạch định chính sách và những nhà kinh tế học chính thống không lường trước được (về mặt lí thuyết) những hậu quả không lường trước và không mong muốn đó vì họ không biết quan hệ nhân quả giữa chủ nghĩa can thiệp và những ảnh hưởng này, hoặc đơn giản là họ phủ nhận sự tồn tại của mối quan hệ đó.

Nếu áp dụng dụng cách tiếp cận theo hướng vòng quay thị trường để mô hình hóa chủ nghĩa can thiệp thì có thể dự đoán được những hậu quả đó. Mặc dù không dự đoán được tất cả những hậu quả không mong muốn một cách chi tiết, nhưng có thể phân loại được chúng bằng phương pháp do Kirzner (1985) đề xuất. Bốn kết quả do Kirzner đưa ra có thể được áp dụng khi phân tích chính sách cấm đoán. Là một hình thái cực đoan nhất của chủ nghĩa can thiệp, cấm đoán được xem là có thể tạo ra những ảnh hưởng mạnh mẽ hơn so với những hình thức can thiệp khác như điều tiết hay kiểm soát giá cả.

Quá trình khám phá chưa được khám phá

Quá trình khám phá chưa được khám phá ám chỉ sự thiếu hiểu biết hay sự nôn nóng của thị trường đối với quá trình dẫn tới giải pháp. Khó tưởng tượng được các giải pháp chính trị mà không có khám phá của thị trường. Ví dụ, không thể có những qui định về tính năng an toàn của xe ô tô và những khu cấm hút thuốc trong nhà hàng nếu thị trường không khám phá được những tính năng và khu vực như thế.

Nhu cầu cần có những chính sách can thiệp, ví dụ như cấm đoán, nảy sinh khi người ta nghĩ rằng vòng quay thị trường là nguyên nhân dẫn đến những sự thiếu hiệu quả hoặc thị trường không thể uốn nắn chúng. Đấy cũng có thể là do nhận thức cho rằng thị trường phải uốn nắn những khiếm khuyết đó bằng một biện pháp “hoàn hảo”, tức thời, và triệt để.

Nhưng xu hướng uốn nắn của thị trường lại diễn ra trong điều kiện kiến thức chưa hoàn hảo. Chúng đòi hỏi thời gian, có thể không được công nhận ngay lập tức và không thể triệt để được trong một thế giới gần như không bao giờ đạt được trạng thái cân bằng. Nói cách khác, thị trường uốn nắn sự thiếu hiệu quả bằng một biện pháp hiệu quả, nghĩa là, các nguồn lực được định hướng từ những khu vực tạo ít giá trị nhất đến những khu vực tạo nhiều giá trị nhất. Như Hayek (1945) đã chứng minh, thông tin trên thị trường nằm rải rác khắp nơi và các nhà hoạch định chính sách chỉ có thể hi vọng thu thập được một phần rất nhỏ thông tin có liên quan đang hiện hữu mà thôi. Ngược lại, thị trường sử dụng tất cả các thông tin này.

Như đã trình bày ở trên, những biện pháp cấm đoán thường được áp đặt sau khi nhà nước đã can thiệp một thời thời gian dài chứ không phải là sau một vòng quay thị trường thực sự. Những biện pháp cấm đoán được áp đặt do tác hại của sự can thiệp trước đó cũng như lợi ích của các biện pháp tự nguyện và trên cơ sở thị trường không được người ta hiểu rõ.

Quá trình khám phá của thị trường ít tốn kém hơn, chất lượng cao hơn, và dẫn tới những sản phẩm an toàn hơn. Cấm đoán làm triệt tiêu quá trình khám phá và thay thế quá trình đó bằng thị trường chợ đen và một chu trình quan liêu, cả hai hiện tượng này đều có những tệ nạn riêng của chúng. 

Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường