Chủ nghĩa tư bản và tự do: Vai trò của chính quyền trong một xã hội tự do (Phần 4)

Chủ nghĩa tư bản và tự do: Vai trò của chính quyền trong một xã hội tự do (Phần 4)

(Tiếp theo Phần 3)

Chương II: Vai trò của chính quyền trong một xã hội tự do

Một luận điểm phổ biến phản đối các xã hội độc tài toàn trị là các xã hội này lấy mục đích để biện minh cho phương tiện(1). Nếu hiểu theo nghĩa đen, luận điểm này rõ ràng phi lô gíc. Nếu mục đích không biện minh cho phương tiện, thì cái gì biện mình cho phương tiện đây? Tuy vậy, câu trả lời đơn giản này chưa đủ để bác bỏ ý kiến phản đối trên, nó đơn thuần chỉ cho thấy luận điểm phản đối đó không được nêu ra một cách khéo léo. Việc bác bỏ mục đích biện minh cho phương tiện ngầm ngụ ý rằng mục đích được đề cập trong câu hỏi kia không phải là mục đích tối hậu và mục đích tối hậu chính là sử dụng các phương tiện thích hợp. Dù muốn hay không, bất kỳ mục đích nào mà chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng các phương tiện bất chính đều phải được thay thế bằng mục đích cơ bản hơn, đạt được thông qua các phương tiện có thể chấp nhận được.

Đối với người theo chủ nghĩa tự do, họ có quyền thảo luận tự do và hợp tác tự nguyện, nghĩa là bất kỳ hình thức ép buộc nào đều không phù hợp. Việc đạt được sự thống nhất hoàn toàn dựa trên cơ sở thảo luận tự do và đầy đủ giữa cá nhân có trách nhiệm là một điều lý tưởng. Đây là một cách khác biểu đạt mục đích của tự do được nhấn mạnh trong chương trước.

Đứng trên quan điểm này, vai trò của thị trường như đã nêu là cho phép đạt được sự thống nhất mà không cần tuân thủ theo một quyền lực nào; thị trường là một hệ thống đại diện theo tỷ lệ thực sự. Mặt khác, nét đặc trưng của hành động thông qua các kênh chính trị chính thức là nó thường đòi hỏi hoặc bắt buộc phải tuân thủ. Một vấn đề tiêu biểu phải được quyết định dựa trên việc "đồng ý" hay "không đồng ý", các điều khoản hầu hết chỉ là để đưa ra một số lượng tương đối hạn chế các lựa chọn thay thế. Ngay cả việc vận dụng cơ chế đại diện theo tỷ lệ dưới hình thức chính trị công khai cũng không làm thay đổi kết luận này. Trên thực tế, số lượng các nhóm riêng biệt được đại diện khá hạn chế, con số này rất nhỏ khi so với tỷ lệ đại diện của thị trường. Quan trọng hơn, thực tế là kết quả cuối cùng sẽ phải tuân theo bộ luật chung được áp dụng cho tất cả các nhóm, chứ không phải là từng điều luật riêng sẽ được ban hành cho từng "đảng" được đại diện, có nghĩa là đại diện theo tỷ lệ dưới dạng thức chính trị dường như không hiệu quả và có chiều hướng làm phân mảnh xã hội, nó không cho phép đạt được sự thống nhất mà không cần tính tuân thủ. Do đó việc hoạt động theo cơ chế này sẽ phá vỡ những đồng thuận mà ở đó nguyên tắc thống nhất và tuân thủ cùng tồn tại.

Việc không thể sử dụng cơ chế đại diện theo tỷ lệ một cách hiệu quả rõ ràng sẽ dẫn đến một số vấn đề. Tôi không thể đặt ra mức ngân sách quốc phòng mong muốn, còn bạn lại muốn một con số khác. Với những vấn đề không của riêng ai như thế này chúng ta có thể thảo luận, tranh luận và bỏ phiếu. Tuy nhiên một khi đã quyết định, chúng ta phải tuân thủ. Chính sự tồn tại của các nhu cầu không thể phân tách như thế này - sự bảo vệ cá nhân cũng như quốc gia trước những đe dọa cưỡng bức rõ ràng là nhu cầu cơ bản nhất - ngăn cản việc phụ thuộc hoàn toàn vào các hành động của cá nhân trên thị trường. Nếu chúng ta sử dụng nguồn lực chung cho những mục đích không của riêng ai, chúng ta phải sử dụng các kênh chính trị để dung hòa sự khác biệt.

Trong khi việc sử dụng các kênh chính trị là thiết yếu thì đồng thời nó cũng tạo áp lực lên sự gắn kết xã hội – yếu tố cần để có một xã hội ổn định. Nếu thỏa thuận về một hành động chung nào đó chỉ nằm trong phạm vi giới hạn các vấn đề mà con người ở bất kì hoàn cảnh nào cũng đồng quan điểm thì áp lực đó không đáng kể. Khi càng có nhiều vấn đề cần đi đến sự đồng thuận rõ ràng, sợi dây vốn đã mỏng manh gắn kết xã hội càng bị kéo căng. Một khi áp lực này đi xa tới mức tất cả mọi người đều bất đồng sâu sắc trước một vấn đề, thì rất có thể sẽ phá vỡ gắn kết xã hội. Những khác biệt nền tảng trong các giá trị cơ bản hiếm khi có thể giải quyết được bằng hòm phiếu; cuối cùng dù không thể được giải quyết triệt để, chúng chỉ có thể được quyết định bằng xung đột. Các cuộc chiến tranh tôn giáo và nội chiến trong lịch sử là minh chứng đẫm máu cho điều này.

Thị trường làm giảm áp lực lên cơ cấu xã hội vì nó cho phép mọi hoạt động trong nó tránh phải tuân thủ những thứ không cần thiết. Phạm vi các hoạt động được dẫn dắt bằng thị trường càng rộng thì những vấn đề cần giải quyết dựa trên các quyết định chính trị công khai càng ít. Ngược lại, những vấn đề cần đi đến sự thống nhất càng ít thì khả năng đạt được đồng thuận trong khi vẫn duy trì xã hội tự do càng cao hơn.

Sự nhất trí đương nhiên là điều lý tưởng. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta không có đủ thời gian cũng như nỗ lực để đạt được sự thống nhất hoàn toàn đối với mọi vấn đề. Chúng ta đành phải chấp nhận sự đồng thuận ở mức thấp hơn. Từ đó dẫn đến việc chúng ta phải chấp nhận quy tắc đa số như là một phương sách, dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Quy tắc đa số là một phương sách chứ bản thân nó không phải là một nguyên tắc cơ bản. Điều này được thể hiện rõ ràng thông qua thực tế rằng chúng ta luôn sẵn lòng viện đến quy tắc đa số thắng thiểu số, và qui mô số đông mà chúng ta yêu cầu phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vấn đề liên quan. Nếu vấn đề cần quyết định nhanh chóng và thiểu số không phản ứng mạnh về việc bị bác bỏ, thì chỉ cần lấy kết quả của đa số thôi là đủ. Nhưng nếu nhóm thiểu số phản ứng mạnh về vấn đề đang bàn, thì ý kiến đa số thôi không đủ. Chẳng hạn, chắc chắn sẽ có ít người người cho rằng vấn đề tự do ngôn luận được quyết định chỉ bởi đa số. Toàn bộ hệ thống pháp lý của chúng ta có rất nhiều những khác biệt như vậy, những vấn đề khác nhau đòi hỏi những nhóm đa số khác nhau. Những điều được đề cập trong Hiến pháp là những vấn đề cần sự thống nhất tuyệt đối. Đây là những nguyên tắc rất quan trọng, thế nên chúng ta chỉ sẵn sàng đưa ra những nhượng bộ tối thiểu để việc triển khai trong thực tiễn trở nên khả thi. Lúc đầu chúng ta cần đạt sự thống nhất để chấp nhận những nguyên tắc này và chúng ta cũng cần sự nhất trí để thay đổi chúng.

Điều luật về tự từ chối (self-denying ordinance) nhằm tránh áp dụng quy tắc đa số đối với một số vấn đề; điều luật này được quy định trong Hiến pháp của chúng ta và trong các bản hiến pháp thành văn hay bất thành văn khác, cũng như các điều khoản cụ thể trong những bản hiến pháp này hoặc những văn bản pháp lý tương đương khác đều cấm việc ép buộc các cá nhân; chúng được coi là những đồng thuận đạt được thông qua thảo luận tự do, đồng thời phản ánh sự thống nhất về phương tiện.

Tiếp theo tôi sẽ xem xét cụ thể hơn, mặc dù vẫn chỉ là những khái niệm chung, những lĩnh vực nào hoàn toàn không thể xử lý được thông qua thị trường, hay chỉ có thể xử lý với chi phí cực lớn khiến việc sử dụng các kênh chính trị có thể là lựa chọn tốt hơn.

CHÍNH QUYỀN LÀ NGƯỜI LÀM LUẬT VÀ LÀ TRỌNG TÀI

Việc phân biệt các hoạt động thường ngày của con người với các hành động chuẩn mực theo khuôn khổ pháp lý và tập quán chung là điều vô cùng quan trọng. Các hoạt động thường ngày giống như hành động của những người tham gia trong một trò chơi, còn khuôn khổ giống như luật chơi vậy. Và cũng giống như một trò chơi lành mạnh đòi hỏi người chơi phải chấp nhận các quy tắc cũng như trọng tài với vai trò diễn giải và thực thi luật chơi. Một xã hội tốt đẹp đòi hỏi các công dân thống nhất về những điều kiện chung chi phối mối quan hệ giữa họ, về một số phương tiện phân xử các cách diễn giải khác nhau về những điều kiện này, và về những công cụ cưỡng chế tuân thủ các quy tắc được chấp nhận chung. Trong trò chơi hay trong xã hội cũng vậy, hầu hết các điều kiện chung là kết quả không lường trước của tập quán và được chấp nhận một cách vô thức. Thường thì chúng ta chỉ thấy những điều chỉnh nhỏ đối với các điều kiện này, tuy nhiên tích tiểu thành đại cũng có thể dẫn đến thay đổi mạnh mẽ trong tính chất của trò chơi hay của xã hội. Dù trong trò chơi hay trong xã hội, không bộ quy tắc nào có thể chiếm ưu thế trừ khi đa số người tham gia đều tự giác tuân thủ chúng mà không cần những biện pháp trừng phạt bên ngoài, điều đó có nghĩa là trừ khi có một sự thống nhất rộng rãi làm nền tảng trong toàn xã hội. Tuy nhiên chúng ta không thể chỉ dựa vào tập quán hay sự thống nhất này để diễn giải và thực thi các quy tắc, chúng ta cần một trọng tài. Đây chính là vai trò cơ bản của chính quyền trong một xã hội tự do: cung cấp một phương tiện mà nhờ đó chúng ta có thể điều chỉnh các quy định, hòa giải những bất đồng về nội dung của các quy tắc, và đảm bảo sự tuân thủ các quy định đối với một vài phần tử không muốn tham gia trò chơi.

Xét trên những khía cạnh này, vai trò của chính quyền càng trở nên quan trọng vì tự do tuyệt đối là điều rất khó tồn tại. Xã hội vô chính phủ đầy hấp dẫn có lẽ chỉ là một quan điểm triết học, nó không khả thi trong thế giới nhân vô thập toàn. Tự do của loài người có thể xung đột lẫn nhau, và khi đó, tự do của một người cần bị giới hạn để bảo tồn tự do của người khác. Như một Tòa án Tư pháp tối cao có lần phán quyết “Quyền tự do di chuyển bàn tay của tôi phải bị giới hạn trong khoảng cách tới chiếc cằm của anh”.

Vấn đề chính đối với việc quyết định các hoạt động thích hợp của chính quyền là làm thế nào để giải quyết những xung đột như trên và đảm bảo quyền tự do của các cá nhân khác nhau. Trong một số trường hợp, câu trả lời có thể dễ dàng. Không mấy khó khăn để chúng ta nhất trí rằng cần phải hy sinh quyền tự do sát hại hàng xóm của một người để bảo tồn quyền tự do sống của người khác. Trong nhiều trường hợp khác, câu trả lời không hề đơn giản. Ở lĩnh vực kinh tế, một vấn đề lớn phát sinh khi nói về xung đột giữa quyền tự do hợp tác và tự do cạnh tranh. “Tự do” phải được hiểu như thế nào khi điều chỉnh cho đối tượng là “doanh nghiệp”? Tại Hoa Kỳ, "tự do" được hiểu theo nghĩa là ai cũng có quyền thành lập doanh nghiệp, hay nói cách khác, các doanh nghiệp đang hoạt động không được tự do loại trừ đối thủ cạnh tranh ngoài cách bán một sản phẩm tốt hơn với cùng một mức giá hoặc bán cùng một sản phẩm với mức giá thấp hơn. Trong khi đó ở lục địa già (Châu Âu – ND), tự do thường mang nghĩa là các doanh nghiệp được làm những gì họ muốn, kể cả việc ấn định giá, phân chia thị trường, hay áp dụng các cách khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Nhưng có lẽ vấn đề khó khăn nhất nảy sinh trong lĩnh vực này liên quan đến sự liên kết những người lao động với nhau, nơi mà vấn đề về tự do hợp tác và tự do cạnh tranh xảy ra xung đột đặc biệt gay gắt.

Trong một lĩnh vực kinh tế cơ bản khác - việc xác lập quyền sở hữu - thì câu trả lời vừa khó vừa quan trọng. Khái niệm tài sản, như được phát triển qua nhiều thế kỷ và thể hiện trong các bộ luật của chúng ta, đã trở nên vô cùng quen thuộc đến mức chúng ta dường như không để ý, và không nhận ra những thứ cấu thành nên tài sản cũng như quyền sở hữu tài sản đã phát triển thành những tạo tác phức tạp của xã hội chứ không còn đơn thuần là những tuyên bố hiển nhiên. Chẳng hạn như, liệu quyền sở hữu đất và quyền tự do sử dụng bất động sản của tôi có cho phép tôi bác bỏ quyền của một ai khác bay qua khoảng không trên khu đất của tôi hay không? Hay quyền sử dụng máy bay của anh ta nên được ưu tiên? Hay điều này phụ thuộc vào độ cao anh ta bay? Hoặc là phụ thuộc vào mức độ tiếng ồn anh ta tạo ra? Sự trao đổi tự nguyện có đòi hỏi anh ta trả tiền cho tôi để được bay qua vùng đất của tôi không? Hay tôi phải trả tiền để anh ta không bay qua vùng đất của mình? Chỉ đề cập đến phí bản quyền, bản quyền, bằng sáng chế; cổ phiếu công ty; quyền của người chủ đất ở ven sông hay ven biển, và những thứ tương tự như vậy cũng đủ để nhấn mạnh vai trò của các quy tắc chung được xã hội chấp nhận trong định nghĩa về tài sản. Nó cũng cho thấy rằng trong nhiều trường hợp sự tồn tại của một định nghĩa tài sản cụ thể và được chấp nhận rộng rãi quan trọng hơn định nghĩa đó là gì rất nhiều.

Một lĩnh vực kinh tế khác cũng vấp phải những vấn đề khó khăn đó là hệ thống tiền tệ. Trách nhiệm của chính quyền đối với hệ thống tiền tệ đã được công nhận từ lâu. Trách nhiệm này được qui định rất rõ trong Hiến pháp (Mỹ), theo đó Quốc hội có quyền "in/đúc tiền, điều chỉnh giá trị nội tệ, cũng như ngoại tệ". Có lẽ không còn lĩnh vực hoạt động kinh tế nào khác mà hành động của chính quyền được thống nhất chấp nhận như vậy. Sự chấp nhận trách nhiệm của chính quyền theo thói quen và gần như là mặc định như hiện nay khiến sự hiểu biết thấu đáo về cơ sở cho trách nhiệm này cần thiết hơn bao giờ hết. Bởi vì việc chấp nhận theo thói quen kia sẽ dẫn đến nguy cơ chính quyền mở rộng phạm vi quyền hạn của mình từ các hoạt động hợp lý sang bất hợp lý trong một xã hội tự do, từ cung cấp một khuôn khổ tiền tệ sang quyết định phân bổ nguồn lực giữa các cá nhân. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về vấn đề này trong chương III.

Tóm lại, việc tổ chức hoạt động kinh tế thông qua trao đổi tự nguyện giả định rằng thông qua chính quyền, chúng ta có được sự duy trì luật pháp và sự ngăn chặn cá nhân này bị chèn ép bởi cá nhân khác, đảm bảo các hợp đồng được tự nguyện kí kết, định nghĩa quyền sở hữu, cách hiểu và thực thi các quyền đó, cũng như cung cấp một khuôn khổ tiền tệ.

HÀNH ĐỘNG THÔNG QUA CHÍNH QUYỀN VIỆN DẪN YẾU TỐ ĐỘC QUYỀN VÌ YẾU TỐ KỸ THUẬT VÀ CÁC HIỆU ỨNG LÂN CẬN

Vai trò của chính quyền mà chúng ta vừa xem xét, đó là thực hiện chức năng mà thị trường không thể tự thực hiện, cụ thể là việc quyết định, phân xử, và thực thi các quy tắc của “trò chơi”. Ngoài ra, còn một số chức năng khác mà có lẽ chúng ta cũng muốn thực hiện thông qua chính quyền. Thực chất, những chức năng này cũng có thể thực hiện được qua kênh thị trường song điều kiện kỹ thuật hay những điều kiện tương tự khiến việc này trở nên khó khăn. Đó là những trường hợp mà trao đổi tự nguyện hoàn toàn sẽ cực kỳ tốn kém, hoặc không thì cũng phi thực tế. Nhìn chung những trường hợp này có thể phân thành hai nhóm chính: độc quyền và các khiếm khuyết thị trường tương tự và hiệu ứng lân cận (neighborhood effects).

Việc trao đổi chỉ thực sự là tự nguyện khi tồn tại những lựa chọn thay thế gần như tương đương. Độc quyền nghĩa là không có các lựa chọn thay thế và do đó nó hạn chế mức độ hiệu quả của tự do trao đổi. Trên thực tế, tình trạng độc quyền thường, nếu không muốn nói là luôn luôn, phát sinh từ sự hỗ trợ của chính quyền hay từ các thỏa thuận thông đồng giữa các cá nhân. Với những trường hợp này, vấn đề là, hoặc tránh tình trạng nâng đỡ độc quyền của chính quyền, hoặc thúc đẩy thực thi hiệu quả các điều luật như luật chống độc quyền. Tuy nhiên, độc quyền có lẽ vẫn xảy ra nếu chỉ có một nhà sản xuất hoặc một doanh nghiệp duy nhất. Tôi mạo muội khẳng định rằng những trường hợp như vậy không phổ biến như chúng ta tưởng, nhưng không thể nói rằng chúng không xảy ra. Một ví dụ đơn giản có thể nêu ra, đó là hoạt động cung cấp dịch vụ điện thoại trong một cộng đồng. Tôi sẽ gọi những trường hợp như thế này là độc quyền vì yếu tố "kỹ thuật” (technical monopoly).

Khi những điều kiện kỹ thuật biến độc quyền trở thành kết quả hiển nhiên của các lực lượng thị trường cạnh tranh, có ba lựa chọn thay thế khả dụng đó là: độc quyền tư nhân, độc quyền nhà nước, hoặc là quy định điều tiết công (public regulation). Cả ba hình thức đều bất cập, bởi vậy chúng buộc phải lựa chọn điều ít bất cập nhất. Henry Simons, sau khi nghiên cứu quy định điều tiết công về độc quyền ở Mỹ, đã thu được kết quả không mấy dễ chịu, và đã đi đến kết luận rằng độc quyền nhà nước có lẽ là sự lựa chọn đỡ thảm họa hơn cả. Walter Eucken, một nhà tự do có tiếng người Đức, sau khi nghiên cứu độc quyền nhà nước trong ngành đường sắt Đức, thì lại cho ra kết quả đáng thất vọng, và đã đưa ra kết luận rằng quy định điều tiết công có lẽ là sự lựa chọn đỡ thảm họa hơn cả. Đúc rút từ hai nghiên cứu này, tôi miễn cưỡng kết luận rằng, độc quyền tư nhân, trong mức độ chấp nhận được, có lẽ là ít tệ hại nhất.

Nếu xã hội là tĩnh, các điều kiện làm phát sinh độc quyền vì yếu tố kỹ thuật sẽ được đảm bảo duy trì, tuy nhiên tôi không mấy tự tin về điều này. Trong một xã hội thay đổi nhanh chóng, các điều kiện khiến độc quyền vì yếu tố kỹ thuật thường xuyên thay đổi và tôi đồ rằng cả quy định điều tiết công lẫn độc quyền nhà nước đều không thể bắt kịp những đổi thay hoàn cảnh và khó xóa bỏ hơn độc quyền tư nhân.

Ngành đường sắt Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình. Trên cơ sở điều kiện kỹ thuật ở thế kỷ XIX thì khả năng độc quyền trong ngành đường sắt là rất lớn. Đây là lời biện minh cho sự tồn tại của Ủy ban Thương mại Liên bang (Inserstate Commerce Commission - ICC). Thế nhưng hoàn cảnh đã thay đổi. Sự xuất hiện của vận tải đường bộ và hàng không đã giảm đánh kể vị thế độc quyền của ngành đường sắt. Tuy nhiên, ICC vẫn tiếp tục tồn tại. Trái ngược với mục đích thành lập ban đầu, với tư cách là một cơ quan bảo vệ công chúng khỏi sự khai thác bóc lột bởi các công ty đường sắt, ICC đã trở thành cơ quan bảo vệ ngành đường sắt trước sự cạnh tranh của các công ty xe tải và các loại hình giao thông khác, và thậm chí gần đây còn bảo vệ những công ty xe tải trước những loại hình vận chuyển mới gia nhập thị trường. Tương tự như vậy, vào thời điểm các tuyến đường sắt bị quốc hữu hóa ở Anh, vận tải đường bộ trước đó đã trở thành ngành độc quyền nhà nước. Nếu như trong quá khứ ngành đường sắt Hoa Kỳ không bị quản lý thì ngày nay gần như chắc chắn rằng ngành giao thông vận tải nói chung, bao gồm cả đường sắt, đã là một ngành công nghiệp cạnh tranh cao với rất ít, thậm chí không có, các yếu tố độc quyền.

Tuy nhiên, sự lựa chọn giữa độc quyền tư nhân, độc quyền nhà nước hay quy định điều tiết công không phải là lựa chọn bất biến, độc lập với hoàn cảnh thực tế. Nếu độc quyền vì yếu tố kỹ thuật liên quan đến một dịch vụ hay hàng hóa thiết yếu nào đó, và phạm vi độc quyền của nó lại quá lớn, thì ngay cả những ảnh hưởng ngắn hạn của độc quyền tư nhân ngoài kiểm soát có lẽ cũng khó có thể cảm thông được, và vì thế sự lựa chọn đúng đắn hơn có thể là quy định điều tiết công, và cũng có thể là sở hữu công.

Độc quyền vì yếu tố kỹ thuật đôi khi biện minh cho sự hiện hữu của một cơ quan độc quyền nhà nước thật sự. Nhưng bản thân nó không phải là cái để biện minh cho kiểu độc quyền nhà nước đạt được bằng cách cấm hoạt động cạnh tranh của các chủ thể khác. Ví dụ, thật khó có thể biện minh cho tình trạng độc quyền nhà nước hiện nay trong ngành bưu chính. Người ta có thể lập luận rằng việc chuyển thư tín là mang tính độc quyền kỹ thuật, thế nên độc quyền nhà nước là lựa chọn ít tồi tệ nhất. Nhưng theo dòng lập luận này, người ta có lẽ chỉ có thể biện minh cho sự tồn tại của một bưu điện nhà nước chứ không phải cho thứ pháp luật hiện hành cấm không cho chủ thể nào khác chuyển phát thư tín. Nếu việc chuyển phát thư tín quả là mang tính độc quyền kỹ thuật thì không ai có thể vượt mặt chính quyền trong cuộc cạnh tranh này. Còn nếu không phải vậy thì chẳng có lý do gì để chính quyền nhúng tay vào lĩnh vực này. Cách duy nhất để tìm ra câu trả lời là cho phép các chủ thể khác tự do gia nhập ngành.

Nguyên nhân lịch sử hình thành độc quyền trong ngành bưu chính là bởi Pony Express đã làm quá tốt việc chuyển phát thư tín xuyên lục địa, đến nỗi khi chính phủ giới thiệu dịch vụ thư tín xuyên lục địa của riêng mình thì cũng không thể cạnh tranh hiệu quả và chịu thua lỗ. Kết quả là một đạo luật ra đời cấm không cho bất cứ ai khác thực hiện chuyển phát thư tín. Đó là lý do tại sao ngày nay công ty Adams Express lại là công ty do chính phủ đầu tư ủy thác thay vì là một công ty vận hành. Tôi phỏng đoán rằng nếu ngành bưu chính mở cửa cho tất cả, sẽ có một số lượng lớn các công ty ồ ạt tham gia và ngành công nghiệp cổ xưa này sẽ được cách mạng hóa chỉ trong thời gian ngắn.

Nhóm trường hợp thứ hai, theo đó trao đổi hoàn toàn tự nguyện không thể xảy ra, đó là khi hành động của cá nhân này có ảnh hưởng đến những cá nhân khác mà lại không thể tính phí hay đền bù lại cho họ. Đây chính là vấn đề "hiệu ứng lân cận". Một ví dụ nhãn tiền đó là tình trạng ô nhiễm của một con sông. Với hành động của mình, người gây ô nhiễm đã buộc những người khác đánh đổi nguồn nước sạch lấy nguồn nước ô nhiễm. Những người này có thể rất muốn phạt người gây ô nhiễm kia. Song, nếu hành động đơn lẻ, họ sẽ vẫn phải dùng nguồn nước bẩn hoặc không thể yêu cầu một mức bồi thường thỏa đáng.

Một ví dụ không kém phần rõ ràng khác, đó là sự xuất hiện các tuyến đường cao tốc. Trong trường hợp này, về mặt kỹ thuật, chúng ta có thể nhận diện và từ đó thu phí sử dụng các tuyến đường của các cá nhân và do đó có thể cho tư nhân vận hành. Tuy nhiên, đối với những con đường được sử dụng chung và có nhiều điểm ra vào thì chi phí cho việc thu lộ phí từng cá nhân khi họ sử dụng dịch vụ cụ thể sẽ cực kì cao, vì chúng ta cần xây trạm thu phí ở tất cả các lối vào. Thuế xăng dầu là một biện pháp ít tốn kém hơn nhiều để tính phí cho các cá nhân tương xứng với tỉ lệ sử dụng đường xá của họ. Tuy nhiên, với giải pháp này, việc thanh toán không gắn liền với mục đích sử dụng cụ thể. Do đó, sẽ rất khó có doanh nghiệp tư nhân nào có thể cung cấp dịch vụ và thu phí mà không cần hình thành sự độc quyền tư nhân rộng rãi.

Những nhận định trên không áp dụng cho các tuyến cao tốc đường dài với mật độ giao thông cao và có ít lối ra vào. Với những trường hợp này, chi phí cho việc thu lệ phí là không đáng kể và hiện tại việc thu phí đang được thực hiện. Đồng thời, ngoài những tuyến đường trên còn có rất nhiều lựa chọn thay thế, do đó sẽ khó xảy ra sự độc quyền. Như vậy, có đầy đủ lý do để những tuyến đường cao tốc này nên được sở hữu và điều hành bởi tư nhân. Khi đó, doanh nghiệp điều hành tuyến đường cao tốc nên nhận được các khoản thuế xăng dầu thanh toán cho việc lưu thông trên đó.

Công viên là một ví dụ thú vị bởi chúng minh họa sự khác biệt giữa các trường hợp có thể và không thể biện minh bằng hiệu ứng lân cận, và vì hầu hết mọi người ban đầu đều coi việc mở các công viên quốc gia rõ ràng là một chức năng phù hợp hiển nhiên của chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế hiệu ứng lân cận có thể dùng để biện minh cho một công viên thành phố, chứ chúng không thể biện minh cho một công viên quốc gia như Yellowstone hay Grand Canyon. Sự khác biệt cơ bản giữa hai trường hợp là gì? Đối với các công viên thành phố, việc xác định những người được hưởng lợi từ nó để tính phí cho những lợi ích mà họ nhận được là vô cùng khó khăn. Nếu có một công viên ở giữa thành phố, những ngôi nhà bốn bề xung quanh được hưởng lợi từ không gian thoáng đãng, và những người đi bộ trong công viên hay đi qua đó cũng được hưởng lợi. Để duy trì trạm thu phí tại cửa hoặc áp đặt phí thu hàng năm tính trên mỗi cửa sổ nhìn ra công viên sẽ rất tốn kém và khó khăn. Trong khi đó các lối vào công viên quốc gia như Yellowstone rất ít, hầu hết mọi người đến thăm quan đều ở lại trong một thời gian đáng kể và hoàn toàn có thể thiết lập các cổng thu phí để thu phí vào cửa. Phương án này hiện nay đã được áp dụng, mặc dù những khoản phí này không bù lại nổi toàn bộ chi phí. Nếu công chúng muốn hoạt động thu phí kiểu này đủ bù lại các loại chi phí thì doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ động cơ để xây nên những công viên như vậy. Và tất nhiên, ngày nay có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân kiểu này tồn tại. Bản thân tôi không thể khơi gợi ra bất kỳ hiệu ứng lân cận hay hiệu ứng độc quyền quan trọng nào có khả năng biện minh được cho hoạt động của chính quyền trong lĩnh vực này.

Những xem xét liên quan đến hiệu ứng lân cận như tôi đề cập ở trên đã được vận dụng để lý giải cho hầu hết mọi khả năng can thiệp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự hợp lý hóa này là kiểu viện dẫn đặc biệt chứ không phải là cách áp dụng thỏa đáng khái niệm hiệu ứng lân cận. Hiệu ứng lân cận cũng giống như một con dao có hai lưỡi. Chúng có thể là lý do cho việc hạn chế cũng như mở rộng các hoạt động của chính quyền. Hiệu ứng lân cận cản trở trao đổi tự nguyện bởi rất khó để có thể xác định mức độ ảnh hưởng lên bên thứ ba; tuy nhiên khó khăn này cũng hiện diện trong hoạt động của chính quyền. Thật khó để biết khi nào hiệu ứng lân cận đủ lớn để biện minh cho các chi phí, cụ thể là trong việc khắc phục chúng và thậm chí việc phân phối những chi phí này một cách hợp lý còn khó khăn hơn. Do đó, khi chính quyền tham gia vào các hoạt động khắc phục hiệu ứng lân cận, việc này phần nào sẽ dẫn đến một loạt những hiệu ứng lân cận khác do không thu được phí hay bồi thường các cá nhân không thích đáng. Hiệu ứng lân cận ban đầu hay những hiệu ứng lân cận mới phát sinh nghiêm trọng hơn thì chỉ có thể đánh giá qua thực tế trong từng trường hợp, và thậm chí cũng chỉ có thể đánh giá tương đối mà thôi. Hơn nữa, bản thân việc thông qua chính quyền để khắc phục hiệu ứng lân cận đã hàm chứa trong đó một hiệu ứng lân cận vô cùng quan trọng không hề liên quan đến bối cảnh cụ thể dẫn đến hành động chính quyền. Mọi hành động can thiệp của chính quyền đều trực tiếp hạn chế tự do cá nhân và gián tiếp đe dọa tới sự bảo vệ tự do bởi những lý do đã trình bày trong chương đầu tiên.

Các nguyên lý chúng tôi đưa ra không ấn định một lằn ranh cứng cho biết khi nào nên kết hợp sử dụng bộ máy chính quyền nhằm đạt được mục tiêu mà chúng ta thấy rằng rất khó hoặc không thể hoàn thành chỉ bằng cơ chế trao đổi tự nguyện. Trong bất kỳ trường hợp muốn can thiệp nào, chúng ta đều phải xây dựng một bảng cân đối, liệt kê những lợi ích và bất lợi [của hành động can thiệp]. Các nguyên lý mà chúng tôi thiết lập cho chúng ta biết những mục nào sẽ được đặt ở phía bên này và những mục nào sẽ được đặt ở phía bên kia; chúng cũng cung cấp cho chúng ta một số căn cứ nhất định để cân nhắc mức độ quan trọng của từng mục khác nhau. Đặc biệt, chúng ta sẽ luôn muốn xem xét khía cạnh pháp lý của bất kỳ can thiệp nào được chính quyền đề xuất, cùng với khả năng hiệu ứng lân cận của nó đe dọa tự do mà có những cân nhắc thỏa đáng. Chúng ta đánh giá mỗi khoản mục ở mức nào thì phải phụ thuộc vào từng hoàn cảnh. Chẳng hạn như, nếu sự can thiệp của chính quyền hiện tại là không đáng kể, chúng ta sẽ chỉ gán một tỷ trọng nhỏ hơn cho các hiệu ứng tiêu cực từ sự can thiệp này. Đây là lý do quan trọng giải thích cho việc nhiều tín đồ tự do trước đây như Henry Simons, khi đưa ra quan điểm vào thời điểm mà quy mô và ảnh hưởng của chính quyền còn nhỏ so với tiêu chuẩn ngày nay, đã sẵn sàng để chính quyền thực hiện các hoạt động mà các nhà tự do ngày nay sẽ không chấp nhận khi chính quyền đã trở nên bành trướng quá mức.

HÀNH ĐỘNG THÔNG QUA CHÍNH QUYỀN TỪ QUAN ĐIỂM GIA TRƯỞNG (2)

Tự do là một mục tiêu rõ ràng chỉ có thể áp dụng cho các cá nhân có năng lực hành vi. Chúng ta không tin vào quyền tự do dành cho người tâm thần hoặc trẻ em. Việc vạch ra một ranh giới giữa các cá nhân có năng lực hành vi và không có năng lực hành vi là vô cùng thiết yếu, song điều này cũng có nghĩa thực chất luôn có sự không rõ ràng trong mục tiêu tự do tối thượng của chúng ta. Chúng ta không thể tránh khỏi việc áp đặt chủ nghĩa gia trưởng đối với những người không có năng lực hành vi.

Trường hợp rõ nhất có lẽ là của những người bị bệnh thần kinh. Chúng ta không mong muốn họ có được tự do nhưng cũng không thể xử bắn họ. Sẽ là rất tốt nếu chúng ta có thể dựa vào hoạt động tự nguyện của các cá nhân để xây nhà và chăm sóc cho những người bị bệnh thần kinh. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chúng ta không thể loại trừ khả năng các hoạt động thiện nguyện như vậy cũng mang những bất cập, lý do chỉ đơn giản là hiệu ứng lân cận dẫn đến thực tế rằng tôi được hưởng lợi khi người khác đóng góp chăm sóc những người điên. Vì lý do này, có lẽ chúng ta nên nhường việc chăm sóc này cho chính quyền.

Trẻ em lại là trường hợp khó hơn. Gia đình là đơn vị hoạt động cơ bản trong xã hội của chúng ta chứ không phải cá nhân. Tuy nhiên, đa phần những người chấp nhận gia đình là tế bào của xã hội đều chủ yếu căn cứ vào các toan tính lợi ích hơn là dựa theo nguyên lý. Chúng ta tin rằng các bậc cha mẹ nói chung là người có thể bảo vệ con cái mình tốt nhất và nuôi dạy chúng trở thành những cá nhân có năng lực pháp lý, có quyền được hưởng tự do. Thế nhưng chúng ta lại không tin vào thứ tự do cho phép các bậc cha mẹ làm những gì họ muốn với những người khác. Trẻ em là những cá nhân có năng lực hành vi từ trong phôi thai, và một người tin vào tự do cũng sẽ tin vào việc bảo vệ những quyền cơ bản của trẻ em.

Nói theo cách khác, có vẻ thực dụng hơn, đó là có một quãng thời gian trẻ em vừa là hàng tiêu dùng vừa là thành viên có năng lực hành vi tiềm năng của xã hội. Tự do sử dụng nguồn lực kinh tế theo ý muốn của các cá nhân bao gồm cả quyền tự do sử dụng chúng để có con cái – tức là việc mua dịch vụ có con cái cũng có thể coi là một dạng tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, một khi lựa chọn này được thực hiện thì trẻ em đã có một giá trị nội tại trong và thuộc về chính bản thân chúng, chúng có tự do của riêng mình chứ không đơn thuần là sự mở rộng tự do của các bậc cha mẹ nữa.

Xét theo nhiều khía cạnh thì nền tảng gia trưởng trong hoạt động của chính quyền là điều gây khó chịu nhất đối với một người theo chủ nghĩa tự do, bởi nó liên quan đến việc chấp nhận những nguyên tắc do một nhóm người áp đặt. Người tự do thấy điều này đáng bị phản đối trong hầu hết trường hợp áp dụng và coi đó là đặc điểm nhận dạng của những người đối lập chính với tư tưởng của mình, đó là những người ủng hộ chủ nghĩa tập thể dưới những vỏ bọc khác nhau như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, hay một nhà nước phúc lợi. Tuy nhiên, việc vờ như các vấn đề đơn giản hơn so với thực tế là vô ích. Không nên lảng tránh nhu cầu cần một biện pháp để hạn chế chủ nghĩa gia trưởng. Như Dicey đã viết năm 1914 về một đạo luật bảo vệ các bệnh nhân tâm thần, “Đạo luật Khiếm khuyết Trí tuệ(3) là bước đầu tiên trên con đường mà không một người khỏe mạnh bình thường nào có thể từ chối ủng hộ, tuy nhiên nếu cứ sa đà theo đuổi thì nó sẽ mang đến cho các chính trị gia những khó khăn khó lòng có thể vượt qua trừ khi can thiệp đáng kể vào tự do cá nhân." Không có công thức nào nói cho chúng ta biết đâu là điểm dừng của sự can thiệp. Chúng ta phải dựa vào phán đoán tương đối của mình, và để đưa ra một nhận định nào đó chúng ta phải dựa vào khả năng thuyết phục người khác rằng đó là một nhận định đúng, hay dựa vào khả năng của họ trong việc thuyết phục chúng ta thay đổi quan điểm. Trong trường hợp này cũng như những trường hợp khác, chúng ta cần phải có niềm tin vào sự đồng thuận đạt được bởi những con người bất toàn và thành kiến ​​thông qua thảo luận tự do và thử sai.

KẾT LUẬN

Những lý do chính yếu biện minh cho sự can thiệp của chính quyền là: duy trì luật pháp và trật tự, xác định quyền sở hữu, làm phương tiện mà nhờ đó chúng ta có thể điều chỉnh quyền sở hữu cũng như các quy định khác của trò chơi kinh tế, minh định những mâu thuẫn trong các cách diễn giải các quy tắc, thực thi hợp đồng, thúc đẩy cạnh tranh, đưa ra một khuôn khổ tiền tệ, tham gia vào các hoạt động giải quyết hiện tượng độc quyền vì lý do kỹ thuật vsf khắc phục các hiệu ứng lân cận; ngoài ra, chính quyền còn có vai trò rõ ràng liên quan tới việc hỗ trợ những nhóm từ thiện tư nhân cũng như từng gia đình trong việc bảo vệ những người mất năng lực hành vi, cho dù đó là người tâm thần hay trẻ em. Một nhà tự do kiên định không phải là một kẻ vô chính phủ.

Tuy nhiên, có một sự thật cần phải thừa nhận, đó là một chính quyền như trên đáng ra nên bị giới hạn một số chức năng và không nên nhúng tay vào một số hoạt động như hiện nay chính quyền liên bang và chính quyền các tiểu bang Hoa Kỳ hay chính quyền các nước phương Tây vẫn đang thực hiện. Các chương kế tiếp sẽ nói chi tiết về những hoạt động này, một số ít thì đã được thảo luận ở trên. Tuy nhiên, để giúp bạn đọc hình dung được tầm quan trọng của vai trò mà một nhà tự do sẽ giao cho chính quyền, chương này sẽ kết thúc bằng cách liệt kê một số hoạt động hiện nay đang được chính phủ Mỹ thực hiện mà tôi thấy không thể biện minh được nếu dựa theo các nguyên lý nêu trên:

1. Chương trình hỗ trợ ngang giá cho nông nghiệp.

2. Các loại thuế nhập khẩu hoặc những hạn chế xuất khẩu, như hạn ngạch nhập khẩu dầu, hạn ngạch đường v.v…

3. Sự kiểm soát sản lượng của chính quyền, chẳng hạn như thông qua chương trình nông nghiệp, hoặc thông qua chia tỷ lệ dầu như Ủy ban Đường sắt Texas tiến hành.

4. Kiểm soát hoạt động cho thuê như vẫn được tiến hành ở New York chẳng hạn, hoặc phổ thông hơn là kiểm soát giá và lương như áp đặt trong và ngay sau Thế chiến thứ hai!

5. Mức lương tối thiểu, hay mức giá tối đa theo qui định của pháp luật, chẳng hạn như qui định lãi suất cao nhất mà các ngân hàng thương mại có thể trả cho các khoản tiền gửi không kỳ hạn là bằng 0, hay lãi suất cố định tối đa trả cho các khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn.

6. Qui định chi tiết cho các ngành, chẳng hạn như quy định về giao thông vận tải của Ủy ban Thương mại Liên bang. Qui định này đã có sự điều chỉnh vì lý do độc quyền kĩ thuật khi mà ban đầu ra đời nó dành cho ngành đường sắt, và đến nay nó không dành cho bất kì phương tiện giao thông nào cả. Một ví dụ khác là quy định chi tiết cho ngành ngân hàng.

7. Một ví dụ tương tự, song được đặc biệt đề cập ở đây bởi tính kiểm duyệt tiềm ẩn và nguy cơ vi phạm tự do ngôn luận của nó, đó là sự kiểm soát đài phát thanh cũng như truyền hình của Ủy ban Truyền thông Liên bang.

8. Các chương trình an sinh xã hội hiện nay, đặc biệt là các chương trình dành cho người già và người hưu trí nhằm bắt buộc người dân (a) để dành một phần thu nhập xác định của họ để mua bảo hiểm hưu trí hằng năm, (b) mua bảo hiểm hưu trí từ một doanh nghiệp do nhà nước điều hành.

9. Quy định cấp giấy phép ở nhiều thành phố và bang hạn chế người thuộc một số doanh nghiệp hoặc công việc hoặc ngành nghề cụ thể không được có giấy phép, theo đó giấy phép còn tệ hơn cả một biên lai thu thuế đối với bất cứ ai muốn tham gia hoạt động.

10. Chương trình "nhà ở công ích" hay các chương trình trợ cấp khác nhằm đẩy mạnh xây dựng dân sinh như bảo lãnh thế chấp F.H.A và V.A., cùng các chương trình tương tự.

11. Nghĩa vụ quân sự cung cấp nhân lực cho các dịch vụ quân sự trong thời bình. Chỉ có lực lượng quân tình nguyện là phù hợp với thiết chế của thị trường tự do; điều đó có nghĩa là, cần người phục vụ thì phải đi thuê. Chẳng có lời biện hộ nào cho việc không trả mức giá cần thiết để thu hút số lượng nam giới cần có, dẫu cho mức giá đó là bao nhiêu. Cơ chế hiện tại là không công bằng và độc đoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tự do định hình cuộc sống của các nam thanh niên, và thậm chí có lẽ còn tốn kém hơn giải pháp thị trường. (Huấn luyện quốc phòng toàn dân để phòng khi chiến tranh xảy ra lại là một vấn đề khác và có thể được biện minh trên cơ sở tự do).

12. Vườn quốc gia, như đã nói ở trên.

13. Luật cấm chuyển phát thư tín vì mục đích lợi nhuận.

14. Những tuyến đường thu phí do nhà nước sở hữu và điều hành như đã nêu trên.

Danh sách này chưa thể thống kê toàn bộ các hoạt động.

Ghi chú:

* AV Dicey, Lectures on the Relation between Law and Public Opinion in England during the Nineteenth Century, 2d. ed; London: Macmillan & Co, 1914, p. li.

Chú thích:

(1) Mục đích biện minh cho phương tiện: làm mọi cách để đạt được mục đích kể cả bất chính miễn là mang lại kết quả tốt – ND.

(2) Chủ nghĩa gia trưởng (Paternalism): hệ thống mà ở đó chính phủ hoặc người chủ lao động bảo vệ công dân hoặc người lao động của mình bằng cách cung cấp những thứ họ cần nhưng không giao cho họ trách nhiệm hoặc tự do lựa chọn.

(3) Mental Deficiency Act: Đạo luật do Nghị viện Anh cho rằng cần có những cơ quan điều trị riêng rành cho những người khiếm khuyết về trí tuệ. Đạo luật đề xuất việc cách ly những người khiếm khuyết trí tuệ bằng cách đưa họ đến một thuộc địa mới lập (theo Wikipedia – ND)

Nguồn: Milton Friedman, Capitalism and Freedom, The University of Chicago Press, 1962

(Xem tiếp Phần 5)