[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 2: Dân chủ đi về đâu (Phần 4)

[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 2: Dân chủ đi về đâu (Phần 4)

VII.

Trước tiên, điều này đòi hỏi phải có sự độc lập đối với các đảng phái, và điều kiện này có thể được đảm bảo bằng điều kiện cần thứ hai về sự độc lập: đó là không bị ảnh hưởng bởi ham muốn tái cử. Vì lí do này, tôi hình dung ra một hội đồng gồm các vị đại diện, cả nam và nữ, sau khi đã có được danh tiếng và sự tin tưởng trong quá trình mưu cầu cuộc sống đời thường được bầu ra cho một nhiệm kì duy nhất kéo dài, chẳng hạn khoảng 15 năm. Để đảm bảo chắc chắn rằng họ đã có đủ kinh nghiệm, sự kính trọng, và không phải lo lắng gì đến việc kiếm sống trong khoảng thời gian sau khi mãn nhiệm, tôi muốn định mức tuổi ra ứng cử của họ tương đối cao, chẳng hạn 45 tuổi, và đảm bảo cho họ những địa vị được kính trọng, chẳng hạn như thẩm phán không chuyên hay gì đó trong vòng 10 năm sau khi kết thúc nhiệm kì ở tuổi 60. Tuổi trung bình của một thành viên trong một hội đồng như vậy sẽ ít nhất là 53, vẫn còn thấp hơn so với tuổi trung bình ở phần lớn các cơ quan tương đương ngày nay.

Dĩ nhiên hội đồng này không phải là sẽ được bầu tất cả vào cùng một ngày, mà mỗi năm những người sau khi đã phụng sự 15 năm sẽ được thay thế bằng những người ở tuổi 45. Tôi mong muốn có các cuộc bầu cử được tổ chức hằng năm nhằm bầu ra 1/15 số thành viên của hội đồng, để cho mỗi công dân sẽ chỉ bỏ phiếu một lần trong đời, ở tuổi 45, và cho một trong số những người cùng thế hệ với mình trở thành một nhà lập pháp. Tôi mong muốn điều này có lẽ không chỉ bởi kinh nghiệm trước đây của tôi trong quân đội và các tổ chức tương tự, ở đó những người cùng thế hệ thường là những người phán xét tốt nhất đối với nhân cách và năng lực của mỗi người, mà còn bởi đấy có lẽ là dịp cho các tổ chức như các câu lạc bộ đồng niên ở địa phương phát triển - những tổ chức sẽ làm cho các cuộc bầu cử dựa trên hiểu biết của cá nhân trở nên khả thể.

Bởi sẽ không còn đảng phái tham gia, nên đương nhiên hệ thống bầu cử đại diện theo tỉ lệ sẽ chẳng còn ý nghĩa. Những người cùng thế hệ ở một khu vực sẽ trao cho những thành viên được kính trọng nhất của lứa tuổi mình danh hiệu này như một thứ phần thưởng. Còn nhiều câu hỏi lí thú khác cần phải đặt ra cho một cách thức tổ chức như vậy, chẳng hạn, để đạt được mục đích này thì liệu rằng một kiểu bầu cử gián tiếp nào đó phải chăng sẽ không được chấp nhận (với việc những câu lạc bộ địa phương ganh đua nhau tôn vinh một trong các đại biểu của mình trở thành vị đại diện được bầu), nhưng tiếc rằng đây không phải là chỗ thích hợp để trình bày những vấn đề đó, chúng ta đang chỉ bàn về nguyên tắc chung.

VIII.

Tôi không nghĩ rằng những chính khách giàu kinh nghiệm sẽ coi những mô tả của tôi về thủ tục trong các cơ quan lập pháp hiện nay là sai, mặc dù có thể họ sẽ coi những điều đối với tôi là có hại và có thể tránh được là những điều có lợi và tất yếu. Nhưng khi nghe được rằng thủ tục đó là hình thức tống tiền và tham nhũng đã được thể chế hóa thì họ cũng đừng nên cảm thấy bị xúc phạm, bởi lẽ chính chúng ta mới là người duy trì các thể chế cần thiết để cho họ hành động nếu chúng ta còn muốn họ có thể làm bất cứ việc tốt nào.

Ở mức độ nhất định, sự thỏa hiệp mà tôi đã nhắc đến có lẽ là điều không thể tránh khỏi trên thực tế trong chính quyền dân chủ.

Điều tôi phản đối là, các thể chế đang thịnh hành đưa việc này vào trong cơ quan tối cao, cơ quan nhiệm vụ tạo ra luật chơi và kiềm chế chính quyền. Điều không may không phải là có những loại sự việc đó xảy ra - ở chính quyền địa phương, những việc đó có thể không tránh khỏi - mà là chúng xảy ra tại cơ quan quyền lực cao nhất tạo ra luật pháp của chúng ta, những đạo luật được cho là để bảo vệ chúng ta chống lại áp bức và độc đoán.

Một hệ quả quan trọng nữa và rất đáng mong trong việc phân tách quyền lực lập pháp ra khỏi quyền lực chính quyền là, việc đó sẽ loại bỏ nguyên nhân chủ dẫn đến việc tập trung quyền lực vào trung ương ngày càng nhiều. Ngày nay xuất hiện xu hướng hòa trộn chức năng lập pháp và chức năng giám quản chính quyền vào trong cùng một hội đồng, và hệ quả của việc này là tạo ra một hội đồng nắm những quyền lực mà không một uy quyền nào nên có trong một xã hội tự do. Dĩ nhiên, ngày càng nhiều nhiệm vụ chính quyền được đưa sang cho hội đồng này bởi nó có thể đáp ứng những yêu cầu cụ thể dưới hình thức làm ra những đạo luật đặc biệt để đạt được mục đích đó. Nếu như những quyền lực của chính quyền trung ương không lớn hơn những quyền lực của các chính quyền vùng và địa phương, thì chỉ những vấn đề đòi hỏi phải đưa ra quy định thống nhất trên toàn quốc để đem lại lợi ích cho tất cả mọi người mới được giao cho chính quyền trung ương xử lí, và đa phần các vấn đề còn lại mà chính quyền trung ương hiện hành đang đảm nhiệm sẽ được phân về các đơn vị chính quyền thấp hơn.

Một khi đa số dân chúng nhận ra rằng chính quyền đứng dưới luật pháp và các quyền lực không bị giới hạn của những vị đại diện thuộc phe đa số là không thể dung hòa với nhau, và mọi chính quyền đều cần phải được đặt bình đẳng dưới luật pháp, thì không cần giao nhiệm vụ nào ngoài quan hệ đối ngoại cho chính quyền trung ương - cơ quan tách biệt hẳn với hoạt động lập pháp - điều hành; và các chính quyền vùng và địa phương, vốn bị giới hạn bởi các đạo luật thống đến cách thức các chính quyền này có thể buộc các cư dân địa phương phải đóng góp vào ngân sách, sẽ phát triển thành các tập đoàn giống như doanh nghiệp, cạnh tranh với nhau để giành sự ủng hộ của công dân, những người sẽ bỏ phiếu cho tập đoàn nào đem lại lợi ích cao nhất cho họ so với mức mà họ phải đóng góp [vào ngân sách].

Theo cách này, chúng ta vẫn có thể bảo vệ được dân chủ đồng thời ngăn chặn được sự chuyển dịch sang cái gọi là “dân chủ toàn trị”, điều mà đối với nhiều người dường như là không thể cưỡng lại được.

Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch. 

Dịch giả:
Đinh Tuấn Minh