[Tinh thần dân chủ] Chương 11: Châu Phi, vượt qua quyền lực cá nhân (Phần 2)

[Tinh thần dân chủ] Chương 11: Châu Phi, vượt qua quyền lực cá nhân (Phần 2)

BẪY PHÁT TRIỂN

Quy mô của Nigeria và của cải thu được từ dầu khí làm cho nước này trở thành đất nước đặc biệt của châu Phi. Không ai thực sự nắm rõ Nigeria có bao nhiêu người – cuộc điều tra dân số nào sau ngày nước này giành được độc lập cũng bị xé nát vì những tranh chấp sắc tộc – nhưng một số đánh giá cho rằng khoảng một phần năm của 700 triệu người ở châu Phi hạ Sahara là người Nigeria. Hầu như tất cả các nước châu Phi đều có ít dân hơn hẳn (dưới 30 triệu), nên không thể hỗ trợ. Chỉ có sáu nước khác giống Nigeria, tức là phần lớn thu nhập của chính phủ phụ thuộc vào dầu mỏ (và, tương tự như Nigeria, đều là những nước độc tài).

Mặc dù Nigeria có nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, tuổi thọ trung bình, thu nhập bình quân đầu người và chỉ số phát triển con người (thước đo tổng hợp về tuổi thọ trung bình, thu nhập bình quân đầu người và trình độ học vấn) của nước này còn kém xa mức trung bình của châu Phi. Tuy nhiên, hoàn cảnh phát triển chung của khu vực châu Phi hạ Sahara vẫn còn rất hạn chế (từ đây trở đi trong chương này tôi sẽ gọi đơn giản là châu Phi – ghi chú của tác giả). Hai mươi ba quốc gia nghèo nhất trên thế giới, đấy là nói theo chỉ số phát triển con người, đều nằm ở Châu Phi.1 Trong số bốn mươi tám nước châu Phi, chỉ có hai nước nằm bên trên một phần ba tính từ dưới lên trong bảng xếp hạng về phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc, và cả hai đều là những đảo quốc nhỏ (Mauritius và Cape Verde). Đại dịch HIV/AIDS đang hoành hành ở nhiều nước, tuổi thọ trung bình ở châu Phi đã giảm, chỉ còn bốn mươi sáu (Nam Á, tức là khu đứng sát bên trên, tuổi thọ trung bình là sáu mươi tư). Theo ước tính, một nửa dân số châu Phi không được tiếp cận với nước uống sạch (ở Nam Á là 28%). Ba mươi phần trăm của người châu Phi bị suy dinh dưỡng (Nam Á chỉ 15%). Mười phần trăm trẻ con châu Phi chết trước khi lên một và 17% không sống tới năm tuổi. Về tỉ lệ trẻ em chết dưới năm tuổi, không có khu vực nào khác trên thế giới tồi tệ như châu Phi, thậm chí chưa có khu vực nào có tỉ lệ bằng một nửa châu Phi. Với con số sống sót đáng buồn như vậy, không có gì ngạc nhiên là châu Phi cũng có tỉ lệ sinh cao nhất thế giới, vì các gia đình cho rằng nhiều đứa con của họ sẽ chết sớm.2

Tỉ lệ trẻ em sống sót không phải không có liên quan tập hợp dữ liệu khác: chất lượng của quản trị. Cho đến mãi thời gian gần đây, châu Phi vẫn là sa mạc về dân chủ và chế độ pháp quyền, và đây vẫn là một trong những khu vực tham nhũng nhất và quản trị kém nhất thế giới. Trong mấy năm gần đây, nhà kinh tế người Argentina, Daniel Kaufmann và các đồng nghiệp của ông ở Viện Ngân hàng Thế giới đã xây dựng sáu thông số đo lường chất lượng quản trị quốc gia, một trong số đó là tiếng nói và trách nhiệm giải trình (trong đó có tự do thể hiện và sự tham gia của công dân vào quá trình lựa chọn chính phủ) là đại diện gần đúng (nếu không nói là một phần) của chế độ dân chủ. Những thông số khác đánh giá mức độ ổn định chính trị (không có bạo lực), hiệu quả của chính phủ (dịch vụ công và hành chính công), chất lượng của các quy định của chính phủ (“cho phép và thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân”), chế độ pháp quyền (trong đó có chất lượng của cảnh sát và tòa án) và kiểm soát nạn tham nhũng. Châu Phi đều kém trong tất cả các thông số này. Trung bình, nó nằm ở khoảng 30% – thông số về chính trị như trách nhiệm giải trình và ổn định có khá hơn một chút, còn chế độ pháp quyền, kiểm soát tham nhũng, chất lượng của các quy định và hiệu quả của chính phủ thì tệ hơn một chút. Bốn thông số sau cùng, mà tôi gom lại thành “chất lượng của nhà nước”, chỉ số trung bình của châu Phi là 28%, thấp hơn hẳn Đông Âu (59%), châu Mỹ Latin và châu Á (47%), Trung Đông (42%) và thậm chí kém ở cả Nam Á (36%) (xem hình 11.1). Trên cơ sở những chỉ số của Ngân hàng Thế giới, châu Phi và Liên Xô cũ là những khu vực được quản trị tồi tệ nhất thế giới. Điều này có thể giúp giải thích vì sao châu Phi lại xếp chót bảng và cách xa những khu vực khác, về chỉ số phát triển con người trung bình của nó.

Bức tranh còn tệ hơn khi nhìn vào các nước châu Phi với dân số trên 30 triệu người. Trừ Nam Phi, nước này gần giống một nước Đông Âu với thứ hạng phần trăm trung bình là sáu mươi tư, một con số đáng báo động. Năm trong bảy nước lớn nhất châu Phi có bộ máy quản trị tồi tệ hơn so với toàn thể châu lục này và ba trong số đó quả thật là đáng buồn. Về tất cả sáu thông số, Nigeria có thứ hạng phần trăm trung bình là ba mươi. Về chế độ pháp quyền, phòng chống tham nhũng và ổn định chính trị/kiểm soát bạo lực, chỉ có 5% số nước có điểm tệ hơn mà thôi. Ethiopia có thứ hạng phần trăm trung bình là mười tám, Sudan thứ năm, Cộng hòa Dân chủ Congo (Zaire cũ) thứ ba. Kenya và Tanzania khá hơn, Kenya thứ hai mươi sáu còn Tanzania thứ ba mươi sáu, nhưng Kenya vẫn nằm dưới mức trung bình của châu Phi.

Ngoài ra, châu Phi còn một bi kịch nữa là những vụ xung đột bạo lực. Trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2007, khoảng hai phần ba những nước mà Liên hiệp quốc gửi các lực lượng gìn giữ hòa bình tới chính là những nước nằm ở châu Phi.3 Khoảng 70% trong số gần bảy mươi nghìn quân của lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc được triển khai trong năm 2007 là ở châu Phi. Kể từ khi những nước này giành được độc lập, hai mươi hai nước châu Phi (gần một nửa) bị lâm vào nội chiến – một số cuộc chiến đã giết chết hàng trăm ngàn người và một số cuộc chiến tái diễn nhiều lần.4 Đến cuối năm 2005, châu Phi, trong khi chỉ chiếm khoảng một phần mười dân số thế giới, thì lại có khoảng 30% số người tị nạn của thế giới, ước tính khoảng 2,5 triệu người5

BỆNH LÍ HỌC VỀ QUYỀN LỰC CÁ NHÂN

Tại sao châu Phi, sau nửa thế kỉ phi thuộc địa hóa, vẫn còn bị sa lầy trong tình trạng nghèo đói, trì trệ, đau khổ, bạo lực và chia rẽ? Một giả định được nhiều người chia sẻ là thiếu nguồn lực. Nhưng điều đó không thể giải thích được vì sao một số nước có nguồn lực tự nhiên giàu nhất châu Phi – Nigeria, Angola, Congo – lại rơi vào tình trạng thất bại về phát triển nặng nề nhất. Cũng không thể giải thích được sự kiện là: “Từ năm 1960, châu Phi đã nhận được 600 tỉ USD viện trợ của nước ngoài, nhưng hầu hết các nước châu Phi hiện nay vẫn nghèo chẳng khác gì lúc đó”6 hay hai phần năm của tất cả các khoản viện trợ chính thức trong năm 2004 – tổng cộng 26 tỉ – chảy vào Châu Phi.7

Dầu khí và viện trợ hoạt động tương tự nhau, vì ở nhiều nước châu Phi, các khoản viện trợ nước ngoài chiếm đến một nửa hoặc hơn nửa ngân sách của chính phủ và một phần đáng kể trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia – có nước chiếm đến trên một phần tư. Cả tiền từ dầu khí lẫn viện trợ đều tạo ra những kẽ hở mà giới ăn trên ngồi trốc cầm quyền có thể dễ dàng cướp cho mình, cho gia đình và cho bạn bè. Thu nhập từ dầu khí và viện trợ, nếu đủ, sẽ tạo điều kiện cho những bất hợp lí trong kinh tế và lãng phí. Hai khoản này sẽ cấp tiền cho bộ máy đàn áp và bảo trợ của nhà nước, tạo điều kiện cho các chính phủ dễ bị mua chuộc không được lòng dân tiếp tục tồn tại. Hai khoản này sẽ làm gián đoạn trách nhiệm giải trình giữa người cai trị và kẻ bị trị. Và hai khoản này tiếp tục nuôi dưỡng con quái vật của nền chính trị châu Phi: tham nhũng, tình trạng vô luật pháp, chính quyền của cá nhân.8

Trong nhiều năm, các nhà khoa học xã hội đã dán cho kiểu chính quyền này cái nhãn neopatrimonialism (neopatrimonialism là hệ thống thứ bậc trong xã hội, trong đó các ông chủ sử dụng nguồn lực của nhà nước để mua sự trung thành của khách hàng trong dân chúng. Đây là quan hệ xin-cho phi chính thức có thể vươn từ những nấc thang cao nhất trong cơ cấu của nhà nước xuống từng cá nhân trong những ngôi làng nhỏ - ND), dựa vào khái niệm của nhà xã hội học người Đức, Max Weber, rằng trong các hệ thống nhỏ, mang tính truyền thống, quyền lực mang tính cá nhân và độc đoán biến người dân thường thành khách hàng của người cai trị chứ không còn là công dân có các quyền nữa. Những nước châu Phi hậu thuộc địa đã trở thành các nước neopatrimonialism vì họ kết hợp cơ cấu chính thức của nhà nước quan liêu hiện đại – về lý thuyết là bị ràng buộc bởi luật pháp, hiến pháp và những quy định và tiêu chuẩn khách quan khác – với quyền lực nằm trong tay cá nhân và những mối ràng buộc xin-cho phi chính thức, tràn lan. Những ràng buộc này xuất phát từ “anh hai” to nhất – tổng thống độc tài – xuống các sĩ quan và đồng minh của ông ta; những người đó, đến lượt mình, lại được coi là ông chủ của những kẻ môi giới quyền lực thấp hơn và xuống tới khối quần chúng công dân bình thường đã bị chia rẽ thành từng mảnh nhỏ, những người này lại bị mắc trong mối quan hệ phụ thuộc vào và ủng hộ cho những ông trùm chính trị trong khu vực của họ.

Trong những hệ thống như thế, các quy tắc phi chính thức bao giờ cũng lấn át các luật lệ và ràng buộc chính thức. Như vậy, “quyền cai trị... được gán cho một cá nhân chứ không phải chức vụ.”9 Cấp dưới trung thành với ông chủ của cá nhân họ chứ không phải là trung thành với luật lệ và các thiết chế. Các vị tổng thống đầy quyền lực (và cấp dưới của họ) sử dụng nguồn lực nhà nước như quỹ đen của cá nhân nhằm duy trì địa vị thống trị về mặt chính trị, cho khách hàng của họ chức vụ nhà nước, công ăn việc làm, giấy phép, hợp đồng, xe cộ, hối lộ, và tiếp cận với những lợi ích bất hợp pháp khác; đổi lại, họ sẽ được ủng hộ vô điều kiện.10 Cơ quan Nhà nước các cấp trở thành nơi cướp bóc, hoặc là cho từng cá nhân hoặc cho gia đình, nhóm người cùng sắc tộc, các bạn bè trong chính trị hay làm ăn. Ở những nước có các nguồn lực lớn nhất – những nước có nhiều dầu mỏ – nạn cướp bóc thật là khủng khiếp. Năm 2006, người đứng đầu Ủy ban Phòng chống Tội phạm Kinh tế và Tài chính của Nigeria ước tính rằng trong bốn thập kỉ, từ ngày giành được độc lập tới nay, các quan chức dân sự và quân sự của nước này đã đánh cắp hoặc lãng phí khoảng 380 tỉ USD từ tiền bán dầu của nước này.11

Nhà chính trị học thuộc Đại học Tây Bắc (Northwestern University), RichardJoseph, một trong những học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Nigeria và châu Phi, gọi tình trạng tham nhũng thâm căn cố đế đó là prebendalism, cũng có xuất xứ từ khái niệm do Max Weber đặt ra. Theo Weber, prebeud là chức trong nhà nước phong kiến, nhận được do phụng sự chủ đất hay mua được và sao đó được dùng để tạo ra thu nhập cho người giữ chức vụ đó.12 Trong các hệ thống prebeudal, người ta cho rằng có người sẽ tìm cách giành lấy chức vụ, rồi sau đó “sử dụng nó vì lợi ích cá nhân người có chức có quyền” cũng như lợi ích của khách hàng của họ, còn khách hàng thì chờ đợi và đòi bổng lộc cho mình. Tham nhũng, quan hệ chủ/khách và quyền lực cá nhân do đó thấm đẫm vào nền văn hóa, làm cho hệ thống càng vững chắc hơn. Ở châu Phi, các mạng lưới chủ/khách đối đầu nhau được tổ chức theo sắc tộc và tổng thống coi họ hàng thuộc sắc tộc của mình là những người trung thành đáng tin cậy nhất trong cuộc đấu tranh giành quyền lực. Điều này làm cho hệ thống không ổn định, khi bản sắc, quyền lực, và xung đột về nguồn lực bị dính vào âm mưu hay thay đổi và dễ bùng nổ.13

Mục đích cơ bản của chính phủ neopatrimonial, prebendali không phải là sản xuất hàng hoá công cộng – đường xá, cầu cống, thị trường, hệ thống thủy lợi, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, vệ sinh công cộng, nước uống sạch, hệ thống pháp luật hiệu quả – giúp tăng năng suất, cải thiện nguồn nhân lực, khuyến khích đầu tư và phát triển. Thay vào đó, nó sản xuất ra các loại hàng hóa tư nhân cho những người nắm giữ hoặc có quyền tiếp xúc với quyền lực chính trị, như có thể dễ dàng nhận thấy trong suốt lịch sử đầy khó khăn của Nigeria. Hợp đồng được thông qua không phải trên cơ sở ai là người có thể cung cấp dịch vụ tốt nhất với giá thấp nhất, mà trên cơ sở ai là người hối lộ nhiều nhất. Ngân sách được chuyển vào những dự án có thể dễ dàng tạo ra các khoản hối lộ. Các khoản vốn do chính phủ cấp biến mất một cách bí ẩn vào các tài khoản ở nước ngoài của những người có chức có quyền. Biên chế của chính phủ phình ra với hàng loạt nhân viên và binh sĩ ma. Và những khoản tiền có thể làm người ta choáng váng được dành để tài trợ cho các biệt thự, phương tiện giao thông, nội các, và đoàn tùy tùng đông đúc của kẻ tham nhũng đầu sỏ – tổng thống.

Xin xem xét trường hợp Uganda. Trong những năm 1990, chính quyền Clinton coi tổng thống Yoweri Museveni là nhà lãnh đạo thuộc “thế hệ những nhà lãnh đạo mới” của châu Phi, những người đã đưa đất nước của mình thoát khỏi chủ nghĩa xã hội và chiến tranh để chuyển sang chế độ dân chủ và thị trường tự do.14 Trong thời gian Clinton và George W. Bush cầm quyền, viện trợ của Hoa Kỳ và các nước khác trút như mưa xuống Uganda – từ năm 1987 đến 2006, tổng cộng đã có 15 tỉ USD đổ vào nước này.15 Và dường như đã có kết quả. Uganda là nước dẫn đầu trong cuộc chiến với HIV/AIDS. Nước này nhiệt tình chấp nhận cải cách kinh tế. Từ năm 1990 đến năm 2004, thu nhập bình quân đầu người gia tăng 3,5% một năm (trong khi châu Phi nói chung hầu như hoàn toàn không tăng).16 Nhưng câu hỏi khó nằm bên dưới điều kì diệu mà ai cũng thấy của Uganda. Từ năm 2003 đến năm 2006, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm trong nông nghiệp – hầu hết dân chúng nước này phụ thuộc vào nông nghiệp – quá thấp, chưa tới 1%. Thâm hụt ngân sách liên tục gia tăng, làm cho lãi suất tăng lên.17 Mặc dù hai phần ba tổng số nợ nước ngoài của Uganda (3,2 tỉ USD) đã được xóa vào cuối những năm 1990, đất nước này đã nhanh chóng tích lũy được những khoản nợ mới, đầu năm 2005, tổng số nợ đã lên đến gần 5 tỉ USD – và cộng đồng quốc tế lại một lần nữa xóa hầu như tất cả các khoản nợ của Uganda. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, 92% người Uganda vẫn không có điện, ba phần tư sống trong nhà nền đất, gần 60% sống trong điều kiện mất vệ sinh và 40% không được dùng nước sạch, và có tuổi thọ trung bình dưới 50.18

Andrew Mwenda, nhà báo và biên tập viên sáng giá của Uganda, đủ dũng cảm để đặt câu hỏi: “Tất cả những khoản viện trợ đó đi về đâu?” Sau đây là một số câu trả lời của ông, lấy từ ngân sách trong một năm của Uganda (2006-7): 48 triệu USD cho dinh thự và văn phòng Tổng thống; 40 triệu cho việc tân trang lại dinh tổng thống; và 370 triệu USD cho những người do tổng thống bổ nhiệm, trong đó có nội các gồm 69 bộ trưởng và 114 cố vấn, cũng như “135 ủy ban và các cơ quan bán tự trị của chính phủ, mà đơn giản chỉ là được chính phủ bảo trợ.”19 Tiền trả cho những người do tổng thống Museveni bổ nhiệm đã chiếm quá 50% số tiền viện trợ trung bình hàng năm của Hoa Kỳ cho Uganda trong những năm gần đây. Nhưng chưa hết, ví dụ, 8 triệu USD để bảo dưỡng máy bay phản lực của tổng thống – “số tiền đủ để xây dựng 1.820 lớp học cho học sinh tiểu học... những công dân của Museveni, đang phải học dưới tán của những cây xoài”. Mwenda tính rằng kể từ ngày mua máy bay phản lực vào năm 1998, tổng số tiền chi cho nó có thể xây dựng được 14.560 phòng học, đủ chỗ cho 750 ngàn học sinh. “Bây giờ khoản tiền đó chỉ giúp được có một người.”20

Museveni nắm chức tổng thống năm 1986, khi Quân đội Khởi nghĩa Kháng chiến Quốc gia (NRA) của ông ta lật đổ được chính phủ áp bức và chia rẽ về sắc tộc, và nắm quyền từ đó đến nay. Mặc dù ông ta đã đồng ý cho tổ chức những cuộc bầu cử đa đảng và có tính cạnh tranh lần đầu tiên vào năm 2006, nhưng đấy là sau khi ông ta đã thay đổi hiến pháp tạo điều kiện cho ông ta nắm quyền vô thời hạn. Và một lần nữa, cuộc bầu cử đã có gian lận. Thiếu vắng trách nhiệm giải trình về chính trị, bộ máy quản trị đất nước ngày càng lâm vào tình trạng thối rữa. Mwenda báo cáo rằng, một phần năm ngân sách quân sự Uganda (tổng cộng 200 triệu USD) được trả cho các binh sĩ ma. Số lượng chính quyền địa phương (chính quyền nào cũng có rất nhiều công việc mà họ tự ý ghi vào) đã tăng lên nhanh chóng – từ 33 huyện năm 1990 lên 81 huyện năm 2005 – để cho nhiều khách hàng của đảng cầm quyền kiếm chác từ những khoản viện trợ hào phóng của nước ngoài. Các quỹ của nhà nước đổ như nước vào “các đơn vị giám sát dự án” – về lý thuyết thì đấy là biện pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện các dự án được tài trợ, nhưng trên thực tế là một phương tiện nhằm duy trì lòng trung thành của bộ máy quan liêu với Museveni bằng cách ban phát cho nhân viên mức lương khủng, các khoản phụ cấp, xe ô tô và những chuyến du lịch ra nước ngoài. Trong các năm 2005-2006, hai phần ba các khoản chi cho các dự án phát triển nông nghiệp là chi phí nhân sự. Trong khi Bộ y tế ở thủ đô Kampala có 3.000 xe (với 1.800 xe bốn bánh) dành cho quan chức và nhân viên thì không trạm xá nào trong số 961 trạm xá trong cả nước có lấy một xe cấp cứu.21

Tất cả những chuyện này đã diễn ra ở một đất nước cho đến rất gần đây vẫn được coi là một trong những ngôi sao sáng nhất trong quá trình phát triển châu Phi. Mặc dù là người chỉ trích Museveni quyết liệt nhất, Mwenda vẫn công nhận rằng nhiều nhà lãnh đạo châu Phi còn tệ hai hơn. So với nạn cướp bóc đã và đang diễn ra ở những nước cướp bóc tàn bạo nhất – Nigeria, Angola và Cộng hòa Dân chủ Congo (Zaire) – nạn tham nhũng ở Uganda dường như là việc bình thường, không có gì đặc biệt. Ít nhất, ở Uganda, người ta đã cung ứng được một số dịch vụ. Ở Nigeria, trộm cắp diễn ra gần như khắp nơi. Bang giàu có nhất trong ba mươi sáu bang của Nigeria, có tên là Rivers State – ngân sách nhà nước năm 2006 khoảng 1,3 tỉ USD, nhiều hơn so với nhiều nước châu Phi với dân số lớn hơn, trong đó có hai lân bang là Niger và Mali. Nhưng chính quyền bang làm được rất ít trong việc xóa đói giảm nghèo và cải thiện việc cung cấp các dịch vụ cơ bản và không hoàn thành trách nhiệm theo pháp luật nhà nước trong việc ngăn chặn nạn tham nhũng của các quan chức chính quyền địa phương. Trong khi đó, thống đốc Rivers State tiêu tới 10 triệu USD cho những khoản ưu tiên đáng ngờ như du lịch nước ngoài, “quà tặng” cho những người không được nhắc đến tên, mua máy bay phản lực và một đoàn xe mới cho văn phòng của ông ta.”22 Số tiền mà chính quyền bang chi cho dàn ô tô mới (11,5 triệu USD), hai trực thăng (40 triệu USD), quà tặng và giải trí (10 triệu USD), gần gấp ba lần ngân sách chi cho y tế (22 triệu USD) ở thủ phủ của bang này.23 “Một điều phối viên về chăm sóc sức khỏe ban đầu của chính quyền địa phương nói với Human Rights Watch rằng nhiều nhân viên đã thối chí của ông ta đơn giản là bỏ việc, khóa cửa và từ bỏ nhiệm sở ở những khu vực nông thôn vì không được trả lương, còn phòng khám thì thiếu tất cả những thứ mà họ cần để làm việc. Một hiệu trưởng trong chính quyền địa phương khác nói rằng khi ông phàn nàn về việc trường mình không có phấn thì người ta bảo ông rằng chính quyền địa phương không có tiền cho lĩnh vực giáo dục.24

Tuy nhiên, kinh nghiệm thường thường bậc trung của Uganda là bài học trong quá trình xem xét những khả năng cho phát triển và dân chủ ở châu Phi. Nếu đây là thực tế đang diễn ra ở đất nước được Ngân hàng Thế giới và các nhà tài trợ phương Tây coi là đất nước cải cách, thì hầu hết các nước còn lại của châu lục này có thể tốt hơn hay không? Xu hướng dẫn tới tình trạng thối nát chính trị của Uganda là mô hình mang tính chu kì của các chính quyền neopatrimonial, chính quyền độc đoán; tức là những chính quyền phải gia tăng chi phí cho việc duy trì mạng lưới ủng hộ, lôi kéo và đàn áp phe đối lập, tưởng thưởng vì lòng trung thành chứ không phải vì có trình độ. Sự thối nát mang tính bi kịch nhất đang diễn ra ở Zimbabwe, đất nước mà nhà độc tài đầy thù hận và ngày càng trở thành độc đoán hơn, Robert Mugabe, đã và đang đưa đất nước xuống bùn theo đúng nghĩa đen của từ này, nhưng Uganda cũng đi theo quỹ đạo tương tự. Nếu không được duy trì bằng số tiền từ bên ngoài hoặc bị loãng ra do những thiết chế chính thức được củng cố, thì cuối cùng chính quyền neopatrimonial sẽ sụp đổ vì những bất hợp lí trong lĩnh vực kinh tế: Đây là một hệ thống chỉ biết ăn chứ không biết đầu tư và sản xuất. Viện trợ nước ngoài chỉ đơn giản là trì hoãn ngày phán xử, là trợ cấp cho quan hệ chủ/khách và nạn tham nhũng của những nhà cầm quyền độc đoán và che chắn cho họ, “để họ không phải trả giá cho những hành động điên rồ về chính trị của mình.”25

Một việc có thể làm nhằm ngăn chặn tình trạng thối nát và tái tạo lại hệ thống là thay đổi ban lãnh đạo. Nhưng, một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống neopatrimonial là thời gian cầm quyền kéo dài của một người cai trị duy nhất. Năm 2005, Tổng thống Museveni “công khai hối lộ đại biểu quốc hội, tống tiền và đe dọa những người khác nhằm sửa đổi hiến pháp và bỏ thời hạn cầm quyền của tổng thống để ông có thể tại vị mãi mãi.”26 Trước cuộc bầu cử tổng thống tháng 2 năm 2006, ông ta tăng cường quấy nhiễu và đàn áp các phương tiện truyền thông độc lập và những thành phần của xã hội dân sự mà ông ta chưa lôi kéo được. Rồi ông ta bỏ tù các ứng cử viên tổng thống đối lập quan trọng nhất, trước khi tuyên bố là đã giành chiến thắng ngay từ vòng đầu tiên mà người ta ngờ là đã có gian dối trong quá trình kiểm phiếu.27

Nhưng hai thập kỉ nắm quyền của Museveni chưa làm cho ông ta trở thành tổng thống lâu nhất ở châu Phi. Vinh dự đó thuộc về Omar Bongo của nước Gabon giàu dầu mỏ, ông này trị vì trong gần bốn thập kỉ. Triều đại tàn nhẫn của Mugabe kéo dài một phần tư thế kỉ. Ở Angola, Cameroon, và Guinea, các vị tổng thống cũng nắm quyền trong hơn hai mươi năm, và ở Burkina Faso cũng kéo dài gần như thế. Hassan al-Bashir của Sudan cầm quyền trong mười tám năm, còn Metes Zenawi ở Ethiopia và Yahya Jammeh ở Gambia thì cầm quyền hơn một thập kỉ. Không người nào trong số họ thể hiện bất kỳ dấu hiệu nào của việc họ sẽ ra đi. Chế độ của cá nhân kéo dài đã thống trị phần lớn lịch sử tương đối ngắn của châu Phi thời hậu thuộc địa. Mobutu Sese Seko cai trị Zaire trong ba mươi hai năm. Julius Nyerere ở Tanzania, Kenneth Kaunda ở Zambia, và Daniel arap Moi ở Kenya từng giữ chức tổng thống trong khoảng một phần tư thế kỉ và Abdou Diouf nắm quyền ở Senegal trong hai mươi năm (sau người tiền nhiệm của ông, Leopold Senghor, cũng cầm quyền trong giai đoạn kéo dài tương tự như thế). Đất nước của họ đã suy thoái trong những triều đại nắm quyền lâu dài như thế.

Chú thích:

(1) Cụ thể, chỉ số là số trung bình của điểm đã được tiêu chuẩn hóa (từ 0 đến 100) về tuổi thọ, sự kết hợp của tỉ lệ người lớn biết chữ và tỉ lệ người đi học so với số người cùng độ tuổi và các GDP trên đầu người tính bằng sức mua tương đương với USD. United Nations Development Program, Humanity Development Report, 2006: Beyond Scarcity; Power, Poverty, and Global Water Crisis (New York: Palgrave Macmillan, 2006), p. 276, and table 1, pp. 283-86.

(2) Figures are from ibid., tables 1-7, pp. 2

(3) United Nations Peacekeeping, “List of Operations”, http://www.un.org/Depts/dpko/list/list.pdf.

(4) Xem công trình nghiên cứu và số liệu của James D. Fearon và David Laitin, “Ethnicity, Insurgency, and Civil War”, American Political Science Review 97 (February 2003): 75-90. Sử dụng định nghĩa được nhiều người chấp nhận về nội chiến (ít nhất hàng ngàn người chết, ít nhất một trăm người mỗi bên, do lòng thù hận bên trong, trong đó một bên tìm cách thay đổi nhà nước hay chính sách của nhà nước bằng bạo lực), trong giai đoạn từ năm 1960 tới năm 2002 họ đã đếm được 36 cuộc nội chiến trong 22 nước ở phía nam sau mạc Sahara. Tôi xin cám ơn Jim Fearon vì đã cung cấp cho tôi các số liệu đã được cập nhật.

(5) United Nations High Commissioner for Refugees, 2005 Global Refugee Trends, p. 3, http://www.unhcr.org/statistics/STATISTICS/ 4486ceb12 .pdf.

(6) Richard Posner, “Should the U.S. Provide Foreign Aid?” the Becker-Posner Blog, January 21, 2007, http://www.becker-posner-blog.com/archives/2007/01/should_the_unit.html.

(7) Steven Radelet, “A Primer on Foreign Aid”, Working Paper_92, Center for Global Development, July 2006, http://www.cgdev.org/content/publication/detail/8864, tabe 2, p. 21.

(8) Nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà báo và học giả châu Phi đã chỉ rõ những hậu quả có tính phá hoại của các khoản viện trợ của nước ngoài mà không kèm theo điều kiện. Trong số những người lên tiếng mạnh mẽ nhất phải kể tới Andrew Mwenda. Xem chú thích 23, 25, 33, và 35 bên dưới.

(9) Michael Bratton and Nicolas van de Walle, Democratic Experiments in Africa: Regime Transition in Comparative Perspective (Cambridge: Cambridge University Press, 1997), p. 62. Để hiểu thêm khái niệm gần gũi với nó là sultanism, xin đọc Houchang Chehabi and Juan J. Linz, eds., Sultanistic Regimes (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1998).

(10) Michael Bratton and Nicolas van de Walle, Democratic Experiments in Africa, pp. 61-68; Robert H. Jackson and Carl G. Rosberg, Personal Rule in Black Africa: Prince, Autocrat, Propphet, Tyrant (Berkeley: University of California Press, 1982), pp. 38-42.

(11) Human Rights Watch, “Chop Fine: The Human Rights Impact of Local Government Corruption and Mismanagement in Rivers State, Nigeria”, January 2007, p. 1, http://hrw.org/reports/2007/nigeria0107/nigeria0107web. pdf.

(12) Neopatrimonial – hệ thống xã hội theo thang bậc, trong đó các ông chủ sử dụng nguồn lực của nhà nước nhằm bảo đảm lòng trung thành của một số khách hàng của họ trong dân chúng nói chung. Quan hệ chủ-khách phi chính thức có thể lan tràn từ những cơ cấu nhà nước cao nhất xuống tới những cá nhân trong các bản làng xa xôi. Prebendal – hệ thống chính trị, nơi các quan chức dân cử và những người làm việc cho chính phủ nghĩ rằng mình có quyền chia nhau hoa lợi của chính phủ và sử dụng những khoản này để giúp cho những người ủng hộ, những người đồng đạo và những người thuộc nhóm sắc tộc của mình – ND Richard A. Joseph, Democracy and Prebendal Politics in Nigeria: The Rise and Fall of the Second Republic (Cambridge: Cambridge University Press, 1987), p. 6; đọc thêm trang pp. 55-68 để hiểu rõ hơn khái niệm này và mối liên hệ của nó với quan hệ chủ/khách.

(13) Những chủ đề này được nói tỉ mỉ trong tác phẩm trên. Trích từ trang 8.

(14) AFP, “Analysis: ‘New Generation’ of East African Leaders Falls from Western Grace”, Middle East Times, January 9, 2006, http://www.metimes.com/storyview.php?StoryiD=20060l09-102257-6310r.

(15) Andrew M. Mwenda, “Please Stop Helping Us”, bài báo trình cho Quĩ Novartis, August 12, 2006.

(16) UNDP, Human Development Report, 2006, table 14, pp. 333-34.

(17) Thâm hụt ngân sách tính theo phần trăm GDP tăng chóng mặt: từ 5% năm 1995 thành 16% năm 2003. Andrew Mwenda, “Anatomy of a Predatory State: The Political Economy of Public Administration in Uganda”, tài liệu chưa được xuất bản, 2006, p. 15.

(18) Mwenda, “Please Stop Helping Us”, p. 3, and UNDP, Human Development Report, 2006, pp.285, 307.

(19) 27. Ibid., p. 4.

(20) Ibid,.

(21) Andrew Mwenda, “Anatomy of a Predatory State”.

(22) Human Rights Watch, “Chop Fine”, p. 4.

(23) Như tóm lược trong “Big Men, Big Fraud, Big Trouble”, Economist, April 28, 2007, p. 56.

(24) Human Rights Walch, “Chop Fine”, p. 3.

(25) Andrew Mwenda. Background to the State in Africa”, draft manuscript, p. 7. Tôi xin cám ơn tác giả vì đã chia sẻ với tôi.

(26) Mwenda, “Please Stop Helping Us”, p. 3.

(27) Andrew Mwenda, “Personalizing Power in Uganda”, Journal of Democracy 18 (July 2007): 23-37.

Nguồn: Larry Diamond (2008). Tinh Thần Dân Chủ. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Spirit of Democracy (2008)

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường