[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 10: Những người phê phán và những lời phê phán
Nực cười là, những người như nhà làm phim người Mỹ Michael Moore (1954–), nhà kinh tế học người Hàn Quốc Ha-Joon Chang (1962–), nhà hoạt động xã hội người Canada Naomi Klein (1970–) và cây bút người Pháp Thomas Piketty (1971–) đã trở thành những người giàu có nhờ những lời phê phán chủ nghĩa tư bản. Dường như nếu có nhu cầu, chủ nghĩa tư bản tưởng thưởng cho cả những người chỉ trích chính nó – tức là khác hẳn những hệ thống khác, ở đấy người ta thường dập tắt mọi lời chỉ trích.
Đồng thời, có những học giả, thày giáo, nhà văn và nghệ sĩ cảm thấy rằng chủ nghĩa tư bản không đánh giá đúng tài năng của mình và trong xã hội công bằng hơn, họ sẽ có địa vị và quyền lực cao hơn. Nhưng họ quên mất rằng không phải chủ nghĩa tư bản mà những người khác đánh giá công việc của họ. Và ai là người có thể nói rằng không cần tôn trọng đánh giá của người khác kia về họ?
Tuy nhiên, dù xuất phát từ đâu, rất nhiều lời chỉ trích chủ nghĩa tư bản là có cơ sở, mà những người ủng hộ nó phải giải quyết: chỉ trích về mặt đạo đức, những lo lằng về cấu trúc của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chỉ trích quyền lực của các tập đoàn và những lo ngại về địa chính trị.
Phê phán về mặt đạo đức
Bình đẳng đối đầu với thịnh vượng. Xã hội tư bản là xã hội tương đối bình đẳng, nhưng khi người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hóa và dịch vụ, thì chắc chắn sẽ có những thay đổi trong tài sản tính bằng tiền (mặc dù được cân bằng qua việc hưởng thụ những hàng hóa mà họ mua). Cách duy nhất để duy trì bình đẳng về mặt tài chính là thường xuyên phân phối lại của cải.
Nhiều số liệu thống kê về bất bình đẳng tài chính là không đúng, bởi vì đấy là những số liệu chỉ tập trung vào thu nhập trước thuế và trước khi người nghèo được nhận các khoản phúc lợi. Nếu xét thêm thuế và các khoản phúc lợi, sự bình đẳng thực sự khá tương đồng trên toàn thế giới: 10% người có thu nhập thấp nhất nhận được khoảng 40% thu nhập trung vị. Các số liệu thống kê cũng che khuất những tác động của tuổi tác và di chuyển: những người trẻ tuổi thường chưa có nhiều của cải, vì họ chưa tạo lập được nguồn vốn con người và vốn hiện vật của mình; trong khi những người nhập cư và những người chưa có kỹ năng chấp nhận những công việc được trả lương thấp, nhưng họ coi đó là bước đệm trước khi có được những công việc được trả lương cao hơn. Trong bất kỳ hệ thống nào, sự tiến bộ như vậy cũng đều là hiện tượng tự nhiên.
Một số nhà phê bình nhận thấy rằng bình đẳng hoàn toàn là bất khả thi, thế nên họ ủng hộ đánh thuế thừa kế thật cao, để của cải không đơn giản là chảy vào tay những người làm việc kém hiệu quả, và tất cả mọi người đều phải bắt đầu cuộc đời trên cơ sở gần như bình đẳng với nhau. Nhưng có nhiều phản đối từ góc độ đạo đức và những góc độ khác nữa đối với chính sách này. Ví dụ, đánh thuế thừa kế cao là đi ngược với bản chất con người, vì con người có ước muốn mạnh mẽ là chu cấp cho con em mình; một số người sống lâu hơn những người khác, tạo điều kiện cho họ chuyển nhiều tài sản hơn cho con cái ngay khi họ còn sống; người ta sẽ phung phí tiền bạc của mình chứ không để cho nó bị thuế lấy đi hết khi mình chết, kết quả là ít đầu tư hơn và sự thịnh vượng trong tương lai cũng sẽ thấp hơn; các công ty thuộc sở hữu gia đình cũng sẽ không còn. Và trong mọi trường hợp, của cải được thừa kế, như chúng ta đã thấy, không phải là bền vững mãi mãi.
Trong khi, về nguyên tắc, gần như tất cả mọi người đều ủng hộ việc đối xử bình đẳng và bình đẳng về cơ hội, nhưng người ta không sẵn sàng hy sinh sự thịnh vượng của mình để có được sự bình đẳng hơn. Người ta nói rằng, tiền không thể mua được hạnh phúc, nhưng tất cả các bằng chứng đều cho thấy tiền mua được. Vấn đề chúng ta cần giải quyết không phải là bình đẳng về thu nhập mà là thu nhập đủ sống: mọi người có đủ sống một cách đàng hoàng hay không?
Chủ nghĩa tư bản và lòng tham. Những lời chỉ trích nói rằng chủ nghĩa tư bản dựa trên lòng tham là do người ta nhầm lẫn giữa lòng tham và tư lợi: nếu người cung cấp thực sự là những kẻ tham lam, thì khách hàng sẽ bỏ đi. Và vì sao chỉ lên án thói “tham lam” trong lĩnh vực kinh doanh? Các doanh nghiệp có thể khao khát lợi nhuận, nhưng khách hàng cũng khao khát tiết kiệm hệt như thế, trong khi người lao động khao khát được trả lương cao hơn. Tuy nhiên, chúng ta ít khi nghe thấy những lời chỉ trích khách hàng và người lao động “tham lam”.
Nhưng đôi khi có những ngoại lệ: ví dụ, có nhà phê bình nói rằng chủ nghĩa tư bản khuyến khích lòng tham trong tất cả mọi người, khiến người ta chống lại tất các loại thuế cần phải thu để chi trả cho những dịch vụ công tối cần thiết. Nhưng nghi ngờ về thuế khóa không phải là xấu: hầu hết các dịch vụ công (ví dụ như y tế và giáo dục) có thể do tư nhân cung cấp trên thị trường hoặc được các tổ chức dân sự hỗ trợ (ví dụ như các chương trình văn hóa và phúc lợi). Và mặc dù việc đánh thuế có thể là cần thiết, nhưng đó cũng là cái xấu không thể nào tránh được. Nói cho cùng, nó được thu bằng vũ lực; và được chi cho những thứ (như nhà tù, quân đội hoặc phá thai) mà một số người đóng thuế cực lực phản đối; nó khuyến khích nhà nước độc quyền cung cấp, kém hiệu quả hơn và có ít lựa chọn hơn; tạo ra những cuộc vận động hành lang và chủ nghĩa thân hữu: người ta tranh giành nhau để được những khoản trợ cấp và ưu đãi cho mình; và nó tạo ra những biện pháp khuyến khích ngược – ví dụ, thuế thu nhập làm cho công việc trở thành kém hấp dẫn hơn, thuế đánh vào tài sản thừa kế không khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Coi trọng vật chất và tiêu dùng thái quá. Chỉ trích mang tính đạo đức khác là chủ nghĩa tư bản thúc đẩy thái độ coi trọng vật chất và tiêu dùng “thái quá”.
Luận cứ này có xuất xứ khá kỳ lạ. Những người chỉ trích chủ nghĩa tư bản thuở ban đầu nói rằng nó không thể hoạt động hiệu quả và kế hoạch hoá duy lý sẽ nâng cao tiêu chuẩn sống nhanh hơn: nhưng các sự kiện đã chứng minh rằng phê phán đó là sai. Do đó, trong thời gian gần đây người ta lại chỉ trích chủ nghĩa tư bản theo cách khác: nó quá hiệu quả, tạo điều kiện mọi người thỏa mãn nhu cầu đến mức “thái quá” và tiêu thụ cả những thứ vớ vấn, làm cho họ không còn để tâm tới những mục tiêu xã hội quan trọng. Nhưng cái được coi là “thái quá” chỉ là quan điểm – nó là cơ sở không phù hợp trong khi xây dựng chính sách công, đặc biệt là khi ám chỉ việc sử dụng vũ lực nhằm kìm hãm tiêu thụ kiểu này.
Có thể chỉ ra hai khiếm khuyết khác trong luận cứ này. Thứ nhất, chúng ta không có thẩm quyền đạo đức nhằm ngăn cản người ta sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm mà những người này đánh giá cao, ngay cả khi chính chúng ta không đánh giá cao sản phẩm đó – và chắc chắn là không có thẩm quyền đạo đức để có thể buộc người ta hành động phù hợp với các giá trị quan của chúng ta, dù chúng ta nghĩ rằng họ có đạo đức hay không có đạo đức thì cũng thế mà thôi. Làm như thế là vi phạm quyền lựa chọn và quyền tự quyết của người khác.
Thứ hai, lý do chính khiến chúng ta áp dụng chủ nghĩa tư bản là vì nó quá giỏi trong việc sản xuất các món hàng hóa kinh tế. Chúng ta không áp dụng chủ nghĩa tư bản nhằm tạo ra các kết quả xã hội như bình đẳng hoặc đoàn kết. Để làm công việc đó thì nó là công cụ không phù hợp, và chúng ta thật khó để lên án nó vì nó không làm được việc đó. Trên thực tế, nó tạo ra một số kết quả xã hội làm cho chúng ta hài lòng, ví du như hòa bình và thịnh vượng cho tất cả mọi người - nhưng đó chỉ là phần thưởng kèm theo mà thôi.
Cắt giảm chi phí và chất lượng. Nhiều nhà phê bình cho rằng cạnh tranh buộc những người sản xuất phải cắt giảm chi phí đến mức thấp nhất, người tiêu dùng sẽ nhận được sản phẩm rẻ tiền, nhưng chất lượng kém. Họ phàn nàn rằng hàng hóa thường không bền – đó là điều phi lý và một sự tiết kiệm sai lầm.
Trên thực tế, áp lực cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhu cầu gì thì cũng thế. Người ta có thể đòi hỏi chất lượng trong trường hợp này và giá rẻ trong trường hợp khác. Ví dụ, nếu thời trang thay đổi nhanh chóng, thì sản xuất những bộ quần áo đắt tiền, nhưng sẽ nhanh chóng lỗi mốt là việc làm vô ích. Các thiết bị điện tử cá nhân thì cũng thế, chúng có thể nhanh chóng bị lỗi thời vì sẽ xuất hiện các công nghệ mới. Mặt khác, đối với hàng hóa lâu bền (máy cắt cỏ hoặc đàn piano lớn), hình dáng hoặc thay đổi công nghệ không phải là vấn đề quan trọng, người tiêu dùng có thể thích các sản phẩm tốt chứ không thích những sản phẩm rẻ tiền.
Dù thế nào thì nó cũng phụ thuộc vào người tiêu dùng: khách hàng lớn tuổi và giàu có hơn có thể thích hàng hóa có chất lượng cao hơn với giá thành cao hơn, trong khi khách hàng trẻ tuổi và nghèo hơn có thể thích hàng hóa có chất lượng thấp hơn nhưng giá cả phải chăng hơn. Ai cấm họ lựa chọn như thế?
Người ta không biết lựa chọn. Một số nhà phê bình cảm thấy bất bình trước việc nhiều người lựa chọn sai, chẳng hạn như tham gia vào những kế hoạch tiết kiệm mà họ không hiểu hoặc mua những món hàng hóa không đáp ứng được nhu cầu của mình. Họ khẳng định rằng cần phải quản lý chặt chẽ các sản phẩm mới, đặc biệt là các sản phẩm trong lĩnh vực tài chính– hay thậm chí cấm cho đến khi biết được toàn bộ tác dụng của chúng.
Nhưng cấm các sản phẩm mới với lý do là người ta có thể sai lầm khi mua những sản phẩm này là biện pháp hoàn hảo nhất nhằm giết chết đổi mới và tiến bộ. Các thế hệ tương lai, những người sẽ được lợi do tiến bộ mang lại chính là những người sẽ bị thiệt thòi. Có thể áp dụng một số biện pháp bảo vệ đơn giản và chung chung, chẳng hạn như khoảng thời gian suy nghĩ lại (cooling-off periods) đối với các sản phẩm tiết kiệm phức tạp. Tuy nhiên, nhiều quy định là vô nghĩa. Không có người nào kiểm tra giấy phép hành nghề: họ hỏi bạn bè và hàng xóm về những món hàng mà họ được giới thiệu.
Không ai trong chúng ta (kể cả cơ quan quản lý) có thể đoán trước được mọi thứ, vì vậy chúng ta mua hàng hóa trên cơ sở thông tin chính xác nhất mà chúng ta có về sản phẩm. Hầu hết mọi người hoàn toàn có khả năng lựa chọn trên cơ sở những thông tin đó. Họ cũng biết rõ nhu cầu của chính mình, hơn hẳn các số quan chức ở xa: những người quản lý không thể biết động cơ cụ thể nào thúc đẩy người ta mua những món hàng mà họ đang mua – xin hỏi những người quản lý có quyền hay lý do gì để ngăn cản người ta mua bán? Giúp đỡ người khác khi họ phạm sai lầm, thì chỉ khuyến khích họ bất cẩn; không cho người ta được quyền lựa chọn, thì sẽ biến họ thành những con số vô hồn. Để cho người ta chấp nhận hậu quả của những lựa chọn của mình thì sẽ hiệu quả hơn và có đạo đức hơn.
Phê phán về mặt cấu trúc
Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất. Nhiều nhà phê bình coi sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa là không hiệu quả, phi lý và vô chính phủ. Ví dụ, các công ty khác nhau làm ra các sản phẩm tương tự nhau và mất tiền quảng cáo: một nhà sản xuất quy mô lớn duy nhất sẽ hiệu quả hơn và không cần quảng cáo nữa. Ngoài ra, nguồn lực có thể được sử dụng và sản xuất được đưa vào quy củ, hợp lý hơn và ít lãng phí hơn nếu sản xuất theo kế hoạch, chứ không bị bỏ mặc để cho tính chất ngẫu nhiên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định.
Nhưng họ quên rằng, cạnh tranh làm cho chủ nghĩa tư bản trở thành cực kỳ năng động. Không phải tất cả các công ty đều sản xuất những mặt hàng giống nhau, mà cố gắng làm cho các sản phẩm của mình trở thành hấp dẫn hơn đối với khách hàng bằng cách liên tục cải tiến và cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng, một người sản xuất đơn lẻ sẽ chẳng có mấy động lực nhằm cải thiện sản phẩm hay hiệu quả của nó.
Thực tế là trong chủ nghĩa tư bản người ta có rất nhiều kế hoạch: các cá nhân và công ty thường xuyên lập kế hoạch. Những kế hoạch này lại nhận được phản hồi liên tục và tức thì từ khách hàng, đấy là các quyết định được khách hàng đưa ra mỗi ngày về những sản phẩm họ sẽ mua hoặc không mua, và người sản xuất nhanh chóng điều chỉnh kế hoạch của mình cho phù hợp. Nếu làm sai, thì chỉ một mình họ là người bị thiệt hại mà thôi. Nhưng khi toàn bộ nền sản xuất của quốc gia được lập kế hoạch thì sẽ hoàn toàn khác. Sẽ phải mất nhiều thời gian mới đưa được những kế hoạch khổng lồ này vào thực hiện và thay đổi cũng rất lâu; ít thông tin phản hồi hơn vì người tiêu dùng có ít sự lựa chọn hơn; nên chúng kém năng động và tiến bộ. Còn nếu kế hoạch sai lầm, thì cả nước sẽ phải chịu hậu quả.
Đầu cơ phi sản xuất. Nhiều nhà phê bình phản đối hoạt động đầu cơ tài chính trong chủ nghĩa tư bản: đặt cược vào giá cổ phiếu hoặc tiền tệ, thị trường tương lai và tất cả những hiện tượng khác. Họ nói rằng những việc này không tạo ra bất cứ sản phảm nào, mà lại mất rất nhiều thời gian, sức lực và tiền bạc.
Trên thực tế, đầu cơ là dấu hiệu chứng tỏ nền kinh tế và thị trường vốn đang sôi động, và những người đầu cơ thực sự tạo ra những thứ gì đó có giá trị. Vì sản xuất được chuyên môn hóa, cho nên những người đầu cơ phải am hiểu sâu sắc về chỉ một vài công ty hoặc một lĩnh vực nào đó, đấy là nói nếu họ muốn cạnh tranh với các đối thủ. Do đó, những quyết định sáng suốt của họ về lĩnh vực đầu tư hoặc không đầu tư là dự báo có giá trị về sức khỏe và triển vọng của các công ty và lĩnh vực đó, giúp những người khác đưa ra quyết định tốt hơn về lĩnh vực mà mình sẽ đầu tư. Bằng cách làm giảm rủi ro trong quá trình đầu tư, họ khuyến khích người ta đầu tư nhiều hơn, tạo vốn và do đó nâng cao hiệu quả sản xuất – và nó đẩy nhanh các nguồn lực tới nơi chúng được sử dụng một cách hiệu quả nhất.
Sản xuất phi dân chủ. Chỉ trích khác là trong chủ nghĩa tư bản, sản xuất được tổ chức nhằm mang lại lợi ích cho chủ sở hữu, trong khi trên thực tế, nó phải được cơ cấu sao cho có thể mang lại lợi ích cho công chúng và các bên liên quan khác. Do đó, sản xuất phải được đặt dưới quyền kiểm soát theo lối dân chủ – sao cho nó có thể được vận hành vì lợi ích lâu dài của đất nước, chứ không phải vì lợi ích ngắn hạn của chủ sở hữu.
Thật không may là, kiểm soát “dân chủ” có nghĩa là kiểm soát về mặt chính trị - với tất cả các vấn đề của chính trị, trong đó có quyền lực của các nhóm áp lực và tư lợi của cử tri, chính trị gia và các quan chức. Nền kinh tế vận hành theo lối chính trị, vì lợi ích của những người có quyền lợi trực tiếp, có nghĩa là nền kinh tế hoạt động vì lợi ích của những người đang có quyền lợi trực tiếp – những người chỉ quan tâm làm sao duy trì cách làm như hiện nay chứ không muốn tiến bộ vì nó có thể phá vỡ mọi thứ. Và ai là người theo đuổi lợi ích ngắn hạn hơn các chính trị gia, ai là người chỉ nghĩ đến những cuộc bầu cử tiếp theo? Ngược lại, chủ sở hữu sẽ được lợi nếu họ tìm cách thúc đẩy sức mạnh lâu dài của doanh nghiệp – cách làm như thế sẽ thu hút được nguồn vốn và nâng cao giá trị của nó.
Quyền lực của các tập đoàn lớn
Các tập đoàn lớn. Nhiều người phê phán chủ nghĩa tư bản vì cho rằng các tập đoàn lớn có quá nhiều quyền lực. Họ cho rằng các tập đoàn này là những thực thể có quá nhiều quyền lực, có thể thao túng các chính trị gia, dư luận xã hội và sự lựa chọn của người tiêu dùng, khai khác những quy định và thuế khóa ưu đãi, đồng thời tạo ra các công ty độc quyền.
Nhưng các công ty độc quyền và các tập đoàn lớn không phải là hiện tượng không thể tránh được của chủ nghĩa tư bản. Trong thị trường cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, biện pháp duy nhất để các công ty giữ được vị trí những công ty lớn là tiếp tục phục vụ công chúng. Ngay cả công ty lớn nhất cũng có thể bị thách thức bởi một công ty khác hay các công ty nhỏ hơn đang gậm nhấm dần các hoạt động kinh doanh khác nhau của mình. Biện phạm duy nhất mà họ có thể dùng nhằm tạo ra độc quyền là sử dụng thuế khóa hay các ưu đãi của nhà nước nhằm ngăn chặn cạnh tranh. Đây không phải là chủ nghĩa tư bản, mà là chủ nghĩa thân hữu.
Lỗi hoàn toàn thuộc về nhà nước. Nhà nước có quyền đánh thuế và ban hành luật lệ và các quy định; nhà nước thậm chí có thể đưa bạn vào tù hay buộc bạn phải đi đánh nhau trong các cuộc chiến tranh. Các doanh nghiệp không thể làm những việc như thế. Dù có bao nhiêu người phàn nàn về quyền lực của các công ty lớn, nhà nước vẫn là tổ chức có quyền lực thực sự. Chúng ta cần các chính trị gia để thúc đẩy cạnh tranh, chứ không phục vụ lợi ích của những công ty sản xuất lớn và đã được củng cố.
Quản lý đối đầu với quyền sở hữu. Một số người chỉ trích khẳng định rằng các công ty đại chúng lớn hoạt động kém hiệu quả, vì quản lý đã tách biệt khỏi quyền sở hữu. Những người quản lý không bị kiềm chế, có nhiều quyền lực và được trả lương cao.
Nhưng tách quyền sở hữu ra khỏi công việc quản lý chỉ là một ví dụ nữa về phân công lao động. Chắc chắn, các chủ sở hữu (các cổ đông) của các công ty nên có quyền kiểm soát những người quản lý của mình, mặc dù ở nhiều nước, luật công ty có nhiều sai sót đã xói mòn quyền lực của cổ đông – đây là một trường hợp khác về hoạt động chính trị làm gián đoạn hoạt động trơn tru của chủ nghĩa tư bản.
Ngoài ra, doanh nghiệp càng lớn thì càng cần người quản lý có nhiều kỹ năng hơn để điều hành. Rất ít người có thể điều hành tập đoàn đa quốc gia tầm cỡ thế giới cho nên không có gì ngạc nhiên khi họ được trả lương khá hậu hĩnh. Nhưng đấy không hẳn là trả quá cao: khi một giám đốc điều hành giỏi quyết định ra đi, giá trị của một công ty có thể giảm mạnh. Các chủ sở hữu phải quyết định xem các nhà quản lý có xứng đáng nhận số tiền mà họ bỏ ra hay không, chứ không phải các chính trị gia - những người có động cơ chính trị khác hẳn - có quyền quyết định.
Quan hệ toàn cầu
Các công ty đa quốc gia. Các tập đoàn đa quốc gia nằm trong số một vài loại hình doanh nghiệp bị chỉ trích nhiều nhất. Những người phê phán cáo buộc họ vận động hành lang để được hưởng những biện pháp bảo vệ đặc biệt, chuyển giá giữa các nước nhằm tiết kiệm các khoản thuế khóa và chuyển các quy trình sản xuất gây ô nhiễm nhất sang các nước nghèo hơn. Họ khẳng định rằng các thị trường thế giới đang bị các tập đoàn tư bản lớn phá hoại, và một số công ty đa quốc gia lớn bằng cả quốc gia, họ hành động giống như các quốc gia đế quốc chứ không còn là các công ty hoạt động trên thị trường.
Nhưng chính các chính phủ và chủ nghĩa thân hữu đã tạo điều kiện cho các công ty phát triển đến mức này. Còn các nước có chế độ thuế khóa khác nhau là vì một số nước muốn thu hút vốn đầu tư và hoạt động kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Trên thực tế, các công ty đa quốc gia đã đầu tư những khoản tiền rất lớn vào các nước nghèo hơn, đưa vốn tới, giúp cho các ngành công nghiệp của những nước này hoạt động hiệu quả hơn, mở ra cơ hội việc làm và tăng lương. Có thể một số công việc khó khăn hơn và một số quy trình sản xuất không sạch sẽ như những quy trình mà người dân ở các nước giàu có lựa chọn; nhưng nếu không làm như thế thì tốc độ phát triển của những nước nghèo sẽ chậm lại, hy vọng của họ về quy trình sản xuất sạch sẽ hơn và dễ dàng hơn cũng bị chậm lại, và người dân ở những nước đó sẽ sống trong nghèo đói lâu hơn.
Nói về chủ nghĩa đế quốc, thì các công ty đa quốc gia và thị trường toàn cầu thực sự thúc đẩy hòa bình trên thế giới. Những khoản đầu tư của họ vào các nền kinh tế mới nổi đã giúp cho hàng tỷ người thoát khỏi đói nghèo và tạo ra tầng lớp trung lưu thịnh vượng, giữ gìn hòa bình và thương mại mà hòa bình tạo ra mang lại cho họ mọi thứ.
McDonald hóa[3]. Tuy nhiên, một số người phê phán khẳng định rằng đầu tư của các nước giàu cũng đi kèm với chủ nghĩa đế quốc về văn hóa, với các thương hiệu, lối sống và tập quán phương Tây tràn vào các địa phương.
Nhưng sự thật là, toàn cầu hóa đã và đang làm cho các loại hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn tràn vào mọi ngõ ngách. Giờ đây, phần lớn Đông Âu và Đông Nam Á không còn đóng cửa với phương Tây nữa, cả hai bên có thể thưởng thức nhiều sản phẩm từ nhiều quốc gia hơn hẳn trước kia. Thương mại làm cho của cải ngày càng tăng, các nền kinh tế mới nổi đưa được nhiều công dân của mình tới các nước giàu có hơn - sinh viên hoặc khách du lịch – những người này lại mang theo các giá trị và văn hóa của nước mình tới những chân trời xa xôi. Kết quả không phải là chủ nghĩa đế quốc vế văn hóa, mà là sự đa dạng và người ta có quyền lựa chọn.
Bảo vệ công ăn việc làm. Người ta thường nói rằng các nền kinh tế mới nổi cần được bảo vệ đặc biệt để họ có thể phát triển các ngành công nghiệp “non trẻ” và trở nên mạnh mẽ về kinh tế. Điều đó có nghĩa là các biện pháp kiểm soát, thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu sẽ ngăn cản các nước giàu hạ giá sản phẩm.
Nhưng trên thực tế, vấn đề lớn nhất ở các nước nghèo là thiếu vốn; và việc họ mở cửa cho đầu tư nước ngoài là biện pháp nhanh nhất để có vốn. Nguồn vốn mới giúp họ làm việc hiệu quả hơn – có thể sản xuất hàng hóa và dịch vụ đủ sức cạnh tranh với bất kỳ sản phẩm nào trên thế giới và giúp người dân địa phương theo đuổi tham vọng của mình.
Chủ nghĩa bảo hộ chỉ có thể xảy ra ở các nước không tự do, đấy là những nước có thể buộc người nộp thuế phải trợ cấp cho các ngành được ưu đãi, hoặc có thể áp đặt thuế xuất nhập khẩu và hạn ngạch đối với các nhà nhập khẩu. Nhưng thị trường giờ đây đã là toàn cầu: tất cả các nước đều được lợi từ việc trở thành một phần của thị trường, họ không thể phát triển – hay thậm chí không thể theo kịp – nếu cứ núp sau những bức tường bảo hộ.
Hiện tượng ô dù
Một số người phê phán chủ nghĩa tư bản khẳng định rằng không có cái gọi là thị trường tự do. Bao giờ cũng có vận động hành lang và thông đồng, vì vậy cần phải có những quy định và quy tắc mạnh mẽ thì chủ nghĩa tư bản mới hoạt động trôi chảy được.
Nhưng những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng bác bỏ thông đồng và chủ nghĩa thân hữu, đồng thời cho rằng những hiện tượng này không chỉ tồn tại trong chủ nghĩa tư bản. Thật vậy, trong các hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện tượng này còn nhiều hơn. Các luật lệ tạo điều kiện cho thị trường hoạt động – công lý và quyền sở hữu và tự do mua bán tài sản – đơn giản và phổ quát hơn hẳn so với các quy định chi tiết mà những người phê phán đề xuất.
Thay vào đó, chính phủ nên tập trung vào vai trò chính của mình là bảo vệ các quyền và tự do cá nhân, chứ không phải tìm cách điều hành nền kinh tế: tức là, tách kinh tế ra khỏi nhà nước. Bài học đáng buồn mà lịch sử dạy chúng ta là, các quan chức không khôn ngoan hơn cũng không đạo đức hơn người dân bình thường. Thật vậy, quyền lực nhà nước lôi cuốn những kẻ tồi tệ nhất trong số những kẻ muốn nắm giữ nó, và cho phép họ gây ra những sai lầm lớn hơn.
Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.
[3] McDonald hóa là khái niệm do nhà xã hội học George Ritzer đề xuất trong cuốn sách xuất bản năm 1993 The McDonaldization of Society – ‘đây là quá trình mà các nguyên lý của các khách sạn ăn nhanh ngày càng thống trị nhiều hơn các khu vực kinh tế Mỹ cũng như phần còn lại của thế giới - ND
