[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 7: Khía cánh đạo đức của chủ nghĩa tư bản

[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 7: Khía cánh đạo đức của chủ nghĩa tư bản

Tầm nhìn đạo đức của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản

Trong cuốn sách xuất bản năm 2014, Tại sao không phải là chủ nghĩa tư bản? (Why Not Capitalism?) chính trị người Mỹ, Jason Brennan (1979−), so sánh đạo đức xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Ông viết rằng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa về một xã hội tốt đẹp đã được biết đến rộng rãi. Như trong một chuyến đi cắm trại của gia đình, mỗi người đều hành động với tinh thần đạo đức và công ích, hướng tới những mục đích đã được mọi người thống nhất, tập trung vào lợi ích của mọi người, chứ không chỉ nhắm vào lợi ích của chính mình. Chủ nghĩa tư bản không bao giờ có thể vươn tới được sự hợp tác hài hòa như thế, vì nó được xây dựng trên những thói xấu của tư lợi và lòng tham. Thực ra, lý do duy nhất làm cho chúng ta có thái độ khoan dung với chủ nghĩa tư bản là chúng ta chưa phải là những người tốt đến mức có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội, chúng ta chưa có sức mạnh đạo đức đủ để từ bỏ hoàn toàn tính ích kỷ và sống vì lợi ích của tất cả mọi người.

Nhưng Brennan nói rằng luận cứ ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng có sức thuyết phục chẳng kém cạnh gì. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng dựa trên sự hỗ trợ lẫn nhau thông qua trao đổi. Chủ nghĩa tu bản bác bỏ vũ lực và bóc lột.

Chủ nghĩa tư bản tưởng thưởng cho những người mang lại lợi ích cho người khác, nó thúc đẩy lòng tin và hợp tác. Chủ nghĩa tư bản tạo điều kiện cho người ta theo đuổi mục đích riêng của mình một cách tự do và hòa bình, chứ không buộc người ta phải phục vụ một mục đích duy nhất do những người cầm quyền lựa chọn. Chính sự đa dạng như thế thúc đẩy lòng khoan dung đối với người khác, tôn trọng tham vọng và lối sống khác nhau của họ, đồng thời quan tâm đến người khác, như là những con người cá nhân chứ không phải chỉ là những thành tố trong cỗ máy kinh tế. Sự quan tâm đến con người được thể hiện thông qua các tổ chức từ thiện, nhà thờ và các tổ chức tự nguyện khác của xã hội dân sự – tất cả đều được tiếp thêm sức mạnh nhờ của cải mà xã hội tư bản tạo ra.

 

Tầm nhìn của chủ nghĩa tư bản cũng thực tế hơn. Các nguyên tắc tư bản chủ nghĩa có thể hoạt động trên toàn thế giới, chứ không chỉ trong các nhóm nhỏ, trong khi mô hình xã hội chủ nghĩa của chuyến cắm trại gia đình sẽ nhanh chóng bị đập tan khi có người lạ tham gia vào. Và không có lý do gì để có thể đổ lỗi cho sự yếu kém về mặt đạo đức của chúng ta. Chủ nghĩa tư bản không yêu cầu chúng ta phải là những người vị tha thánh thiện, mà nó biến tính tư lợi vốn là bản chất của chúng ta thành lợi ích xã hội. Bằng cách tưởng thưởng cho tài năng, sự tập trung, năng lượng và tổ chức hiệu quả, nó sẽ tự động hướng chúng ta đến đổi mới, khám phá và phục vụ người khác.

Chủ nghĩa tư bản tạo ra giá trị và giúp lan tỏa của cải

 

Khả năng tạo ra và lan tỏa giá trị và của cải của chủ nghĩa tư bản là một phẩm chất đạo đức nữa của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản khuyến khích người ta khám phá những món hàng hóa mà người khác mong muốn, và cung cấp cho họ. Sử dụng công cụ sản xuất có năng suất cao tạo điều kiện cho chúng ta đáp ứng nhu cầu của nhiều người, chứ không chỉ nhu cầu của một số ít người.

 

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho thu nhập và của cải của con người gia tăng rất nhanh, đấy là điều không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Trong phần lớn lịch sử nhân loại, thu nhập trung bình của người ta chỉ ở mức đủ sống: có lẽ là 1−3 đôla một ngày, nếu tính theo thời giá hiện nay. Nhưng vào khoảng năm 1800, thu nhập bỗng đột ngột gia tăng và hiện nay tốc độ gia tăng phi mã vẫn tiếp tục. Người nghèo được hưởng lợi nhiều nhất: năm 1990, theo Ngân hàng Thế giới, khoảng 40% dân chúng sống với mức dưới 1,9 đôla một ngày; hiện nay chỉ chưa đến 10% dân chúng còn phải sống với mức thu nhập thấp như thế mà thôi. Trong 35 năm qua số người nghèo được cắt giảm nhiều hơn so với 3.500 năm trước đó.

 

Cùng với việc tạo điều kiện cho người dân đủ sức mua nhiều hơn những món hàng mà họ cần và muốn có, chủ nghĩa tư bản còn tạo điều kiện cho người ta mua những món hàng hóa có chất lượng cao hơn. Cạnh tranh thúc đẩy các nhà sản xuất đổi mới sáng tạo, giảm giá và nâng cao tiêu chuẩn. Kết quả là, tất cả những món hàng thiết yếu - thực phẩm, nhà ở, nhiên liệu và quần áo – hiện nay có giá rẻ hơn và chất lượng cao hơn bao giờ hết. Năm 1800, rất ít người trên thế giới có đủ tiền mua thịt tươi; ngày nay, ở các nước tư bản mọi người đều có thể mua được. Nhà khoa học tự nhiên và chính trị người Anh, Matt Ridley (1958−), viết trong cuốn sách Người lạc quan duy lý (The Rational Optimist), xuất bản năm 2011, rằng vào năm 1800, phải làm việc 6 giờ mới có tiền mua một cây nến đủ thắp trong một giờ. Đến những năm 1880, chỉ cần làm 15 phút là đủ tiền để mua dầu hỏa thắp cho cây đèn có ánh sáng tương đương với ngọn nến kia. Bây giờ, chỉ cần làm nửa giây là đủ tiền trả cho đèn LED. Về ánh sáng, nếu so với năm 1800, chúng ta giàu hơn 43.200 lần.

 

Của cải gia tăng mạnh mẽ là lý do vì sao con người hiện nay khỏe mạnh hơn, cao hơn và sống lâu hơn bao giờ hết. Để giải thích được những hiện tượng này, chúng ta không thể không viện đến những bước tiến thần kỳ của khoa học công nghệ. Xét cho cùng, nếu không phải là động lực của chủ nghĩa tư bản thì cái gì thúc đẩy công nghệ phát triển? Tại sao giai đoạn Đại Thịnh vượng lại diễn ra đột ngột như thế? Và tại sao khi người Tây Đức lái những chiếc Mercedes và BMW sang trọng được trang bị công nghệ cao, thì người Đông Âu vẫn phải tranh nhau mới mua được những chiếc Trabants và Yugos không chắc chắn, không thoải mái và tạo ra nhiều khói bụi?

 

Chắc chắn là công nghệ tốt hơn sẽ nâng cao mức sống của chúng ta, nhưng chính chủ nghĩa tư bản mới tạo được động lực để phát triển công nghệ. Muốn thế thì các quyền tài sản là cực kì cần thiết: chúng mang lại cho người ta phương tiện và thái độ tự tin để đầu tư thời gian và công sức vào nghiên cứu, phát minh và phát triển, vì họ biết rằng có thể thu được thành quả từ những công sức mà mình đã bỏ ra. Những công nghệ và sản phẩm mới được phổ biến rộng rãi và nhanh chóng nhờ phương thức sản xuất cực kỳ hiệu quả và phân phối trên thị trường tư bản chủ nghĩa.

 

Từ sau những năm 1980, tỷ lệ nghèo đói trên thế giới đã giảm đi nhanh chóng phần lớn là do Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Âu và các nước khác đã mở cửa cho giao thương quốc tế và các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản tràn vào. Kết thúc Thế chiến II, Singapore, Hong Kong, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc nằm trong số những nước nghèo nhất thế giới; nhưng chỉ sau vài thập kỉ, giao thương và chủ nghĩa tư bản đã biến những nước này thành những nước giàu có nhất thế giới – khác hẳn các nước láng giềng gần gũi với họ như Bắc Triều Tiên, Campuchia và Lào, hay thậm chí là Malaysia và Trung Quốc, là những nước mới chỉ bắt kịp tiến trình này trong thời gian gần đây. Những ví dụ đó chứng tỏ rằng chủ nghĩa tư bản và thương mại mang lại lợi ích nhiều nhất cho chính những người nghèo khó nhất. Và đối với những người nghèo nhất, mỗi ngày thêm 1 đôla có thể có nghĩa là sự khác biệt giữa sống và chết.

 

Các quyền tài sản mang lại lợi ích cho con người

 Các quyền tài sản không chỉ tạo điều kiện cho người sử dụng các nguồn lực. Quyền sở hữu mang lại cho người ta động lực nhằm bảo vệ, phát triển và làm gia tăng các nguồn lực. Người ta chăm sóc tài sản riêng cẩn thận hơn và sử dụng hiệu quả hơn hẳn tài sản của cộng đồng hoặc vô chủ. Ví dụ rõ ràng là thất bại thảm hại của các hợp tác xã/nông trang ở Liên Xô và ở Trung Quốc của Mao, chúng chỉ gây ra nạn đói và cảnh bần hàn mà thôi. Một vấn đề nữa là đánh bắt cá: biển là vô chủ cho nên cá biển thường bị đánh bắt quá mức. Ở Iceland và New Zealand, người ta cấp cho các đội tàu đánh cá hạn ngạch đánh bắt, các đội có thể trao đổi với nhau – đấy cũng là quyền tài sản - thì nguồn lợi hải sản mới được bảo vệ.

Các quyền tài sản cũng tạo điều kiện cho mọi người thể hiện và phát triển chính bản thân họ theo cách mà họ lựa chọn. Tài sản cung cấp cho người ta chỗ ở, không cho người khác, hay thậm chí, nhà nước xâm phạm. Như nhà khoa học chính trị và kinh tế học người Anh gốc Áo, F. A. Hayek (1899−1992), đã chỉ ra trong tác phẩm Đường về nô lệ, xuất bản năm 1944: Người ta thậm chí không thể thể hiện và thảo luận các quan điểm chính trị khác nhau nếu chính phủ có thái độ thù địch kiểm soát các hội trường, nguồn cung cấp giấy và các phương tiện truyền thông.

Tài sản cũng đáp ứng một số nhu cầu tự nhiên trong mỗi chúng ta. Tài sản mà chúng ta có là phạm vi ảnh hưởng của chính chúng ta. Đấy có thể là những đồ vật mà chúng ta thu thập được ngay từ khi còn nhỏ, hoặc được bạn bè tặng cho chúng ta, hoặc nhắc nhở chúng ta về những nơi chúng ta từng đến hoặc những việc đã từng xảy ra với chúng ta. Chúng có thể là những đồ vật (chẳng hạn như ô tô và máy giặt), mang lại cho chúng ta một số lợi ích, sự tiện lợi và tự chủ. Đấy có thể là những đồ vật mà chúng ta chỉ đơn giản là thích sở hữu, duy trì, quản lý, bảo vệ và phát triển: chẳng hạn, nhiều chủ hộ sẽ nói như thế về ngôi nhà riêng của mình và nhiều nhà khởi lập nghiệp sẽ nói như thế về công việc kinh doanh của chính mình.

Một số người bài chủ nghĩa tư bản khẳng định rằng các nguồn lực cần phải được chia sẻ chứ không nên sở hữu một mình. Nhưng các nguồn lực có giá trị không đơn giản là có đó, sẵn sàng để chúng ta chia sẻ khi chúng ta quyết định chia sẻ: Phải có người tạo ra nguồn lực. Sa mạc cằn cỗi chỉ đơn giản là sa mạc khô cằn cho đến khi một số người nhìn thấy tiềm năng của nó và dọn dẹp để trồng cấy, khoan giếng dầu hoặc xây nhà trên đó. Chia sẻ bằng vũ lực nguồn lực mà một người nào đó - với cái nhìn thấu triệt và nỗ lực - đã tạo ra không chỉ là bất công mà còn phản tác dụng: Tại sao người ta lại phải bỏ công sức, nếu họ không nhìn thấy bất kỳ lợi ích gì? Họ cũng có thể ngồi chơi và đợi chia phần sau khi những người khác đã nỗ lực.

Bình đẳng và thịnh vượng

 Người ta đã viết rất nhiều về hiện tượng được cho là bất bình đẳng về của cải và thu nhập trong các xã hội tư bản chủ nghĩa; và cách thức mà hiện tượng này biện hộ cho việc phân phối lại tài sản và thu nhập. Nhưng các bằng chứng  thực tế trong đời sống không ủng hộ lập luận này. Các số liệu về bất bình đẳng thường xem xét thu nhập trước thuế và không tính đến những khoản phúc lợi xã hội. Nhưng sau khi những người có thu nhập cao nhất đã nộp thuế và những người có thu nhập thấp nhất đã nhận các khoản phúc lợi, trợ cấp thất nghiệp, ốm đau hoặc hưu trí, phân phối thu nhập giữa các nước tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa không khác nhau nhiều lắm. Sự khác biệt thậm chí còn thu hẹp hơn, nếu tính đến các dịch vụ mà nhà nước cung cấp miễn phí cho những người nghèo nhất, ví dụ như chữa bệnh và học hành. Hơn nữa, các số liệu thống kê thường bỏ qua tất cả những ảnh hưởng động. Theo logic của một cuộc khảo sát hàng năm thì những người tốt nghiệp các trường Ivy League (8 trường nổi tiếng nhất ở Mỹ - ND) là những người nghèo nhất thế giới: những khoản vay trong thời gian học đại học làm cho họ trở thành những người “nợ như chúa chổm”; nhưng họ có bằng cấp có uy tín, những người này cuối cùng sẽ trở thành một trong những nhóm người giàu có nhất thế giới.

Bất bình đẳng là hệ quả tự nhiên của quá trình trao đổi. Khi hàng nghìn người tham dự buổi biểu diễn của một ca sĩ nổi tiếng, mỗi người chỉ cần trả vài đôla thì đến cuối buổi biểu diễn ca sĩ đó sẽ có nhiều đôla hơn, còn khán giả thì có ít tiền hơn. Muốn ngăn chặng bất bình đẳng đang ngày càng gia tăng thì chỉ có một cách là sau mỗi buổi biểu diễn lại tiến hành tái phân phối thu nhập. Muốn có bình đẳng về tiền bạc thì phải thường xuyên tái phân phối – sẽ chẳng còn lý do gì để những người như ca sĩ vừa nói tiếp tục biểu diễn.

Có nghĩa là tất cả mọi khán giả không còn được hưởng những lợi ích không phải bằng tiền từ giao dịch. Chẳng có ai trao đổi trừ khi cả hai bên đều thu được giá trị: những người đi xem hát có thể phải bỏ ra mấy đôla, nhưng đổi lại, họ có được niềm vui và thích thú khi được nghe ca sĩ mà họ ngưỡng mộ hát. Không thể lấy giá trị không tính bằng tiền mà họ thu được và phân phối lại cho người khác. Theo thuật ngữ cân bằng những thứ có giá trị, phân phối lại các nguồn lực tài chính là chỉ làm được một nửa công việc.

Vần đề liên quan đến định nghĩa bình đẳng

 Trong chủ nghĩa tư bản, bất bình đẳng về tiền bạc chứng tỏ bạn phục vụ những người khác tốt hay kém. Bạn chỉ nhận được tưởng thưởng bằng tiền khi phục vụ người khác và chứng tỏ người khác sẵn sàng trả bao nhiêu cho dịch vụ của bạn. Không cần hội đồng nào hay ủy ban nào để đánh giá giá trị mà bạn cung cấp cho người khác và quyết định khoản tiền thưởng: những người mà bạn phục vụ sẽ tự đánh giá giá trị của dịch vụ.

Thật vậy, không hội đồng nào hay ủy ban nào của nhà nước có đủ trí tuệ để có thể quyết định một cách duy lý các phần thưởng ban tặng. Họ dùng cơ sở nào để quyết định giá trị mà ngôi sao nhạc rock, vận động viên thể thao, thợ lặn biển sâu, thày giáo, thợ hàn hay y tá đã mang lại cho xã hội? Làm sao họ quyết định phải trả mỗi người bao nhiêu thì sẽ phản ánh đúng giá trị đó? Ngay cả khi họ chọn biện pháp dễ dàng, đó là trả lương như nhau cho tất cả mọi người, thì nó cũng không mang lại công bằng hay bình đẳng. Nói cho cùng, một số công việc khá rủi ro, những công việc khác thì lại khá an toàn; một số việc thì thú vị và đa dạng, số khác thì nhàm chán và dễ gây bực bội; một số việc thì dễ dàng, một số việc khác lại cần tập trung cao độ; một số vị trí khá dễ chịu và thuận tiện, một số vị trí khác thì không được như thế. Đấy có thể gọi là thu nhập về mặt tâm lý, trả lương như nhau lại tạo ra bất bình đẳng về thu nhập tâm lý. Nhưng trong chủ nghĩa tư bản, cạnh tranh trên thị trường lao động diễn ra một cách tự động: chẳng hạn, người ta đòi lương cao hơn cho công việc nguy hiểm, khó chịu hay cần kỹ năng rất cao.

Do đó, những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cho rằng, tái phân phối tiền bạc là bất hợp lý, vì không có cơ sở khách quan để quyết định giá trị và tưởng thưởng; nó bị bóp méo vì không tính đến những yếu tố không tính bằng tiền; và cũng không cần vì thị trường làm việc này tốt hơn, nhanh chóng và hoàn toàn tự động. Nhưng họ cũng khằng định rằng, tái phân phối là vô đạo đức. Người ta phải có quyền nhận phần thưởng mà tài năng và sự chăm chỉ mang lại cho mình. Chúng ta không cho phép người nào ăn cắp tiền của những người khá giả hơn, kể cả nhân danh bình đẳng. Thế thì tại sao chúng ta lại cho phép chính phủ làm việc này - đặc biệt là các quyết định sẽ phụ thuộc vào ý thích của các quan chức mà chẳng cần cơ sở nào.

Nếu thực sự muốn giúp đỡ người nghèo, thì chủ nghĩa tư bản dường như là biện pháp tuyệt vời nhất. Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu hiện nay, không phải người giàu mà là người nghèo đang giàu lên nhanh hơn: đối với người nghèo, đây là khác biệt sâu sắc. Hơn nữa, vốn làm cho mọi người đều giàu lên, chứ không chỉ những người tình cờ nắm được nó. Bằng cách gia tăng năng suất, vốn mang lại cho mỗi chúng ta những món hàng mà chúng ta cần và muốn với số lượng nhiều hơn. Nó tạo điều kiện cho chúng ta làm ra nhiều của cải hơn nhưng lại làm việc ít hơn và làm trong những điều kiện dễ dàng hơn. Và bởi vì người dân trong các nước tư bản giàu có hơn, họ có xu hướng làm từ thiện nhiều hơn, trao nhiều thu nhập hơn cho các tổ chức từ thiện. Tuy nhiên, ngay cả khi không được các tổ chức từ thiện giúp đỡ, người nghèo ở nước tư bản giàu có vẫn có điều kiện sống tốt hơn hẳn người nghèo ở nước xã hội chủ nghĩa nghèo đói (về mặt thu nhập, cao hơn gần mười lần).

Chủ nghĩa tư bản cải thiện quan hệ giữa người với người

 Nhà tư tưởng chính trị người Mỹ, Ayn Rand (1905–82) khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là hệ thống xã hội có đạo đức, vì không cần dùng vũ lực để duy trì hệ thống này. Thay vào đó, nó hoạt động thông qua trao đổi tự nguyện. Không ai bị buộc phải buôn bán với bất cứ người nào khác. Sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau là điều kiện tiên quyết để thuyết phục người khác giao thương với bạn; giá trị này càng đặc biệt quan trọng đối với những người nghèo khó.

Chủ nghĩa tư bản cũng xóa bỏ phân biệt đối xử. Nó làm như thế mà không cần bất kỳ điều luật hoặc quy định nào. Doanh nghiệp có hành vi phân biệt đối xử như từ chối nhận lao động thuộc một giới tính, chủng tộc, tôn giáo hoặc nền văn hóa nhất định nào đó, hoặc từ chối bán cho khách hàng thuộc các nhóm người cụ thể nào đó sản phẩm của mình hay không cho họ thuê sản phẩm của mình, sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng mình đã bị thua thiệt so với những đối thủ cạnh tranh không phân biệt đối xử. Thật vậy, đối với các nhóm thiểu số, các quy định thường lợi bất cập hại: ví dụ, những quy định về mức lương tối thiểu làm cho người sử dụng lao động phải chi nhiều tiền hơn mới thuê được người, vì vậy họ không sẵn sàng tiếp nhận và đào tạo thanh niên chưa được kiểm tra hay những người nhập cư có thể không rành ngôn ngữ địa phương và ít quen thuộc hơn với các chuẩn mực văn hóa – mà đây chính là những người mà pháp luật cần giúp đỡ.

Thú vị là, trong chủ nghĩa tư bản, tỷ lệ phụ nữ biết chữ lại cao hơn các xã hội khác, mà đây là yếu tố quan trọng quyết định sức khỏe, giáo dục và sự thịnh vượng của gia đình. Tỷ lệ phụ nữ biết chữ bắt đầu gia tăng nhanh chóng song hành với quá trình phát triển thương mại trong thời kỳ Phục hưng. Hầu hết các thương nhân là đàn ông, còn các bà vợ quản lý công việc kinh doanh khi đàn ông đang lênh đênh trên biển hoặc bán hàng: khả năng đọc viết và tính toán của phụ nữ trở thành quan trọng, chẳng khác gì các xã hội tư bản hiện nay.

So sánh

Xin nhắc lại: không thể so sánh chủ nghĩa xã hội lý tưởng với chủ nghĩa tư bản trên thực tế. Cũng không thể định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng những động cơ được cho là tốt (chẳng hạn như lòng tin và sự hợp tác) và chủ nghĩa tư bản bằng những động cơ xấu (chẳng hạn như lòng tham). Nhiều người đã thử, nhưng sự thật bác bỏ những định nghĩa này. Chủ nghĩa tư bản không cắt cổ nhau mà hợp tác với nhau. Trên thực tế, đó là trật tự xã hội có tính hợp tác rất cao, nó hoạt động dựa trên lòng tin và trừng phạt một cách có hệ thống những động cơ phản xã hội.

Chủ nghĩa tư bản cũng là hệ thống xã hội có tính thực tế. Nó hướng nỗ lực của chúng ta vào những công việc thực sự hiệu quả – chứ không hướng vào viễn cảnh không thể nào vươn tới nào đó về một xã hội hoàn hảo chỉ toàn là những công dân có đạo đức và vị tha. Nó không có ảo tưởng về bản chất của con người. Nó cho rằng không thể hô hào hay ép buộc con người để họ có thể biến thành thiên thần. Thay vào đó, nó hoạt động nhằm kiềm chế thói tư lợi, vốn là bản tính tự nhiên của chúng ta và dùng tư lợi nhằm tạo ra kết quả có lợi về mặt xã hội. Chủ nghĩa tư bản cũng kiên định về mặt đạo đức: nó không cho rằng hành vi trộm cắp, độc quyền, thiên vị và bạo lực là tốt chỉ vì nhà nước cũng thực hiện những hành động như thế.

Thế giới quan tư bản chủ nghĩa cũng có thể được mở rộng ra vượt ra bên ngoài ranh giới một nhóm nhỏ. Phần lớn thế giới đã là xã hội tư bản chủ nghĩa, hoặc đang giao dịch với các nước tư bản chủ nghĩa. Vì chủ nghĩa tư bản hoạt động dựa trên các quy tắc như các quyền tài sản, trung thực và tôn trọng các thỏa thuận hợp đồng, nên nó không có giới hạn về số người có thể tham gia. Nhưng các xã hội được định hướng bởi một số mục tiêu mang tính tập thể, quy mô càng lớn càng gây ra những vấn đề lớn hơn. Những người lập kế hoạch và quản lý những xã hội này cần thu thập và xử lý nhiều thông tin hơn về những hàng hóa cần được sản xuất và vai trò của mỗi cá nhân trong quá trình đó. Sẽ có những bất đồng to lớn về mục tiêu của xã hội và những việc cần làm nhằm đạt được những mục tiêu này. Và những nhà lãnh đạo tàn nhẫn, những người có thể đưa ra những quyết định như thế và thanh trừng bất kỳ sự bất đồng nào, lại càng được trọng dụng.

Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.

Dịch giả:
Phạm Nguyên Trường
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh