[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 4)

[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 4)

VII.

Việc thuyết phục những người theo CNXH rằng hoạch định tập trung là phi hiệu quả tốn rất nhiều thời gian. Những người hoạt động thực tiễn có lẽ sẽ chấp nhận điều này chẳng cần bằng lí lẽ mà chỉ cần qua việc nhìn vào ví dụ cảnh báo về hệ thống kiểu Nga-Xô; tuy nhiên, các lí thuyết gia đương đại chỉ chầm chậm thoái lui khỏi cái lập trường quan điểm được tạo dựng bởi các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx và được tiếp nối duy trì bởi những lí thuyết gia hàng đầu cho tới tận cách đây chỉ khoảng độ 50 năm. Cho dù thế, ở một mức độ nào đó họ đã cố ý tạo ra cái ấn tượng rằng họ đã đánh bại đầy thuyết phục các đợt công kích dữ dội của những kẻ phê phán thù địch, bởi vì họ đã dám từ bỏ hết lập trường này đến lập trường khác để đưa ra các giải pháp mới hơn cho vấn đề.

Những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả Marx và Engels, đã không hiểu được rằng, để các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả thì bất kì sự chỉ đạo tập trung nào đối với cỗ máy sản xuất được sở hữu bởi xã hội đều đòi hỏi phải có những tính toán dưới góc độ giá trị. Như Friedrich Engels đã nói chắc như đinh đóng cột, rằng kế hoạch xã hội đối với khâu sản xuất “sẽ được tạo lập một cách hết sức đơn giản mà chẳng cần đến cái “giá trị” vẫn cứ được nhắc đến hoài (the famous value)”. Ngay cả khi cuộc tranh luận về vấn đề [hoạch định tập trung] bắt đầu nổ ra một cách nghiêm túc ngay sau khi kết thúc Thế chiến I, nó đã được tiếp sức bởi một chuyên gia khoa học xã hội trong nhóm logic thực chứng thành Vienna với nhận định rằng tất cả các phép tính về hiệu quả của quá trình sản xuất xã hội có thể được tiến hành in natura [thông qua các đại lượng vật lí - ND] - nghĩa là, không cần xem xét đến các tỉ lệ thay thế lẫn nhau luôn biến đổi giữa những yếu tố vật chất được sử dụng. Chống lại quan điểm này chính là Ludwig von Mises và một số các lí thuyết gia đương đại cùng thời (bao gồm cả Max Weber) khi họ đưa ra luận điểm phê phán có tính quyết định đầu tiên đối với lập trường CNXH.

Điểm cốt lõi ở đây - cái mà cần phải thừa nhận rằng ngay cả các nhà kinh tế cổ điển hàng đầu cho tới tận John Stuart Mill đã không hiểu được - là ý nghĩa tổng quát của các tỉ lệ thay thế luôn thay đổi giữa các hàng hóa khác nhau. Ý tưởng đơn giản này, cái cuối cùng đã giúp chúng ta hiểu ra được vai trò của sự khác nhau và của sự biến đổi mức giá các mặt hàng khác nhau, đã dần được khai triển với tốc độ chậm chạp, khởi đầu từ việc nhận ra - tôi không nói đấy là sự khám phá vì dĩ nhiên là mọi tá điền chất phác đều đã biết đến những sự khác nhau và sự biến đổi đó nếu không muốn nói họ còn biết đến cả vai trò lí thuyết của chúng - rằng các mức lợi tức sẽ giảm dần khi liên tiếp đưa lao động và tư bản vào khai thác đất đai. Tiếp đến, quy luật này, dưới cái tên quy luật về độ thỏa dụng cận biên giảm dần, được phát hiện là chi phối những mức thay thế cận biên giữa các loại hàng hóa tiêu dùng khác nhau. Và cuối cùng, nó được khai triển thành mối quan hệ tổng quát giữa tất cả các loại nguồn lực hữu dụng, giúp xác định được ngay tức thì rằng liệu các loại nguồn lực đó có giá trị kinh tế ngang bằng nhau hay không, và rằng liệu chúng có khan hiếm hay không. Chỉ đến khi hiểu được rằng sự thay đổi các mức cung của những yếu tố sản xuất khác nhau (hoặc các hàng hóa khác nhau để thỏa mãn nhu cầu) quyết định tỉ lệ thay thế cận biên luôn biến đổi của chúng, thì người ta mới thực sự hiểu được rằng không thể tách rời các mức quy đổi tương đương (hoặc các tỉ lệ thay thế cận biên) quen thuộc khỏi bất kì tính toán hiệu quả kinh tế nào. Cuối cùng, người ta chỉ thực sự hiểu được rằng những mức giá cả trong một nền kinh tế phức tạp có chức năng không thể thay thế cho tới khi nhận ra được là: nhờ có các mức giá thị trường nên cái mức quy đổi tương đương này tại tất cả những cách sử dụng khác nhau [của các yếu tố sản xuất khác nhau hoặc những hàng hóa khác nhau để thỏa mãn nhu cầu], điều hầu như chỉ được một số ít trong số nhiều người mong muốn sử dụng chúng biết đến, mới có thể được làm ngang bằng với các tỉ lệ thay thế giữa bất kì cặp hàng hóa nào, bất kể chúng được sử dụng cho mục đích sử dụng nào.

Như tôi đã đề cập trước đó, xét về bản chất, “các tỉ lệ thay thế cận biên” luôn biến đổi đối với những loại hàng hóa khác nhau có ý nghĩa giống như các mức quy đổi tương đương nhất thời được xác định bởi hoàn cảnh hiện tại giữa những loại hàng hóa đó, và nếu chúng ta muốn có thể khai thác được đầy đủ nhất công năng của các loại hàng hóa này thì những tỉ lệ này tất phải là những tỉ lệ tại đó các hàng hóa này phải có khả năng thay thế được lẫn nhau ở mức cận biên trong tất cả những cách sử dụng khả thể của chúng.

Sự hiểu biết về chức năng của các mức quy đổi tương đương luôn thay đổi giữa những hàng hóa như là cơ sở cho sự tính toán, và sự hiểu biết về chức năng truyền thông của các mức giá cả, cái đã kết hợp tất cả những thông tin về các hoàn cảnh phân tán giữa một số lượng lớn con người thành một tín hiệu đơn nhất, là hai nhân tố giúp mọi người cuối cùng nhận thức được một cách rõ ràng về luận điểm: rằng chỉ có thể thực hiện được tính toán duy lí trong một nền kinh tế phức tạp dưới góc độ các mức giá trị hay các mức giá cả, và rằng những mức giá trị này sẽ trở thành các chỉ dẫn thực sự chỉ nếu như chúng là những nỗ lực phối hợp, chẳng hạn các mức giá trị được hình thành trên thị trường, của mọi loại tri thức của những người cung cấp hay người tiêu dùng tiềm năng về mức độ sẵn có cũng như các cách sử dụng khả thể của chúng.

Phản ứng đầu tiên của các lí thuyết gia theo CNXH, một khi họ không còn có thể nhắm mắt làm ngơ trước thực tế này, là đưa ra đề xuất rằng các ủy ban hoạch định XHCN của họ nên xác định những mức giá bằng cách sử dụng cùng hệ thống các phương trình đồng thời vốn đã được những nhà kinh tế toán nỗ lực tạo dựng để giải thích các mức giá thị trường ở trạng thái cân bằng. Họ thậm chí còn cố gắng ám chỉ rằng Wieser, Pareto và Barone đã chỉ ra từ lâu về khả năng làm được điều này. Trên thực tế, cả ba học giả này đã chỉ ra cái mà một ủy ban hoạch định XHCN ắt phải cố gắng thực hiện để làm cân bằng tính hiệu quả của thị trường - chứ không phải, như các lí thuyết gia theo CNXH đã hiểu một cách sai lệch, về việc làm thế nào để có thể hoàn thành được một kết quả bất khả như thế. Cụ thể, Pareto đã nói rõ ràng rằng hệ thống các phương trình đồng thời - công trình giúp ông trở nên nổi tiếng - chỉ nhằm đưa ra cái khuôn mẫu tổng quát (giống như cách hiện nay chúng ta hiểu về điều này), chứ không thể dùng để xác định các mức giá cụ thể, bởi sẽ chẳng có bất kì một cơ quan trung ương nào có thể biết được tất cả những hoàn cảnh theo không gian và thời gian vốn định hướng các hành động của các cá nhân, các hành động như thế trở thành thông tin và được nạp vào cỗ máy truyền thông mà chúng ta gọi là thị trường.

Vì thế, nỗ lực đầu tiên của các lí thuyết gia theo CNXH hòng đáp trả phê phán của Mises và một số người khác đã sớm bị sụp đổ. Bước tiếp theo nhằm bác bỏ Mises, cụ thể là Oscar Lange và cả một số những người khác nữa, là các nỗ lực khác nhau nhằm hạn chế bớt vai trò của hoạch định tập trung và tái đưa vào một số những yếu tố của thị trường dưới cái tên “cạnh tranh kiểu CNXH”. Ở đây tôi sẽ không đi sâu vào việc phân sự đảo chiều trí tuệ vĩ đại này đã đem lại ý nghĩa như thế nào đối với những người đã nhấn mạnh trong một thời gian dài về tính ưu việt vượt bậc của hoạch định tập trung đối với cái gọi là “tình trạng hỗn độn của cạnh tranh”. Cách tiếp cận có tính mâu thuẫn nội tại này đã làm nảy sinh những vấn đề mới thuộc về một loại hoàn toàn khác. Tuy nhiên, không cách nào nó có thể vượt qua được hai khó khăn cốt yếu. Thứ nhất, chừng nào mà mọi máy móc công nghiệp và tư bản khác còn thuộc về “xã hội” (nghĩa là chính phủ), thì chính quyền XHCN không thể để cho cạnh tranh hay để thị trường quyết định lượng tư bản mà mỗi doanh nghiệp phải có là bao nhiêu, hay cho phép người quản lí được dấn thân vào các loại rủi ro nào đây là hai điểm mang tính quyết định để cho một thị trường thực sự hoạt động được. Thứ hai, nếu ngược lại chính phủ cho phép thị trường hoạt động tự do, nó sẽ không thể làm được bất cứ thứ gì để bảo đảm rằng khoản thu nhập mà thị trường đem lại cho mỗi cá nhân tham gia sẽ tương ứng với mức mà chính phủ coi là công bằng trên bình diện xã hội. Đấy, rốt cuộc thì mong ước đạt được cái gọi là mức thu nhập “công bằng” như thế lại là toàn bộ mục đích của cuộc cách mạng XHCN!

Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch. 

Dịch giả:
Đinh Tuấn Minh