![[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 6)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25003.31_(1).jpg)
[Kinh tế học cấm đoán] Chương 5: Hiệu ứng tham nhũng do cấm đoán (Phần 6)
Tham nhũng và cấm đoán
Ngoài những đóng góp như thế cho môn kinh tế học về tham nhũng một vài người có đóng góp cho môn kinh tế học về luận cấm heroine, như Rottenberg (1968) và Moore (1977), đã mô tả chi tiết vai trò và ảnh hưởng của tham nhũng trong việc thực thi những biện pháp cấm đoán, chi phí phải trả và lợi ích mà các bên tham gia tham nhũng nhận được và những biện pháp giúp giảm tham nhũng.
Cấm ma túy thể hiện một sự thay đổi cơ bản trong quyển sở hữu, đây là đối tượng của các lực lượng tìm kiếm lợi nhuận độc quyền và tham nhũng. Nhưng cho đến nay, nguồn gốc quan trọng nhất và trực tiếp nhất của nạn tham nhũng là hoạt động trên thị trường chợ đen do những biện pháp cấm đoán tạo ra. Cấm đoán tạo ra những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận bất hợp pháp, mà nếu không có cấm đoán thì không thể nào xảy ra được. Thực thi những biện pháp cấm đoán tạo ra cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cho các quan chức và cơ quan của chính phủ, những người có năng lực tốt nhất và luôn sẵn sàng giành giật những mối lợi do cấm đoán gây ra. Những cơ hội tìm kiếm lợi nhuận như thế dẫn đến nạn tham nhũng của các quan chức nhà nước.
Hai kết quả của việc thực thi cấm đoán đóng vai trò là một công cụ trong nạn tham nhũng của các quan chức chính phủ. Giá cao hơn do việc thực thi pháp luật gây ra tạo điều kiện cho các nhà cung cấp trang trải những chi phí về rủi ro mà họ phải gánh chịu và chi phí để tránh bị phát hiện. Những người cung cấp có thể giảm bớt một số rủi ro bằng cách thỏa thuận với các chức. Việc giảm này là do các quan chức đã thất bại trong việc thực thi luật cấm đối với người cung cấp (người đưa hối l), chính họ tham gia vào việc vận chuyển các sản phẩm bị cấm hoặc thi hành những biện pháp cấm đoán có chọn lọc, chỉ nhắm vào những đối thủ cạnh tranh với người hối lộ họ mà thôi. Nhờ - bảo kê như thế mà các quan chức sẽ nhận tiền, nhận một số sản phẩm bất hợp pháp, hoặc nếu có hiện tượng tống tiền thì nhận được sự im lặng của kẻ đưa hối lộ.
Tham nhũng là hàm số của giá cả của các sản phẩm bị cấm. Khi những biện pháp thực thi pháp luật được tăng cường thì giá của sản phẩm bị cấm và chi phí nhằm tránh bị phát hiện tăng lên so với chi phí sản xuất căn bản. Chúng ta nên kì vọng rằng những người cung cấp sẽ sẵn sàng trả tiền nhằm giảm bớt rủi ro cho họ. Giá cao hơn làm cho người ta lo lắng hơn và sẵn sàng trả tiền cho các quan chức hơn.
Khi những biện pháp thực thi pháp luật được tăng cường thì sự lo sợ tăng lên và lượng hàng hóa giảm. Sự cách biệt giữa giá bán và chi phí sản xuất cơ bản gia tăng. Như vậy là, những biện pháp thực thi pháp luật được tăng cường làm gia tăng tỉ lệ giữa chi phí rủi ro và chi phí sản xuất. Kết quả là cơ hội tìm kiếm lợi nhuận của nghề kinh doanh những biện pháp trốn tránh sẽ gia tăng. Có nhiều con đường giúp các doanh nhân giảm bớt khả năng bị phát hiện. Họ có thể sử dụng tàu thuyền và máy bay có tốc độ cao hơn, nhỏ hơn và các sản phẩm dễ che giấu hơn hoặc bằng cách nào đó đóng gói để người ta không phát hiện được. Một cách tránh rủi ro là mua chuộc các quan chức chịu trách nhiệm thi hành những biện pháp cấm đoán. Khi những nỗ lực thực thi pháp luật gia tăng thì tham nhũng (tương tự như hiệu lực của ma túy) sẽ giành được lợi thế so sánh trong việc tránh bị phát hiện so với vận tải, công nghệ, và lừa dối. Do đó chúng ta kì vọng rằng tham nhũng sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng. những nỗ lực trong việc thực thi pháp luật, dù tổng doanh thu trong ngành này có tăng hay không. Điều này giả định rằng các nhu cầu cơ bản đối với sản phẩm đó, hình phạt đối với cả việc và phạm luật cấm và tham nhũng, và những nỗ lực nhằm làm giảm tham nhũng là không thay đổi.
Những người cung cấp trên thị trường chợ đen trả tiền cho các quan chức để được họ bảo vệ hoặc giảm bớt rủi ro. Các chức có thể làm cho những người cung cấp bớt rủi ro, nhưng họ cũng phải đối mặt với nguy cơ mất công việc đầy uy tín và được trả lương cao. Chi phí cao hơn mà các quan chức phải trả được bù đắp bằng số tiền mà các nhà cung cấp chi trả cho họ, khoản tiền này dựa trên giá trị của những vụ giao dịch bất hợp pháp. Giá trị của những vụ giao dịch ma túy nằm dưới quyền tài phán của một quan chức thường gấp hàng trăm lần tiền lương hàng năm của quan chức đó.
Sách báo viết về tội phạm cho thấy hoa hồng của một vụ có thể có ảnh hưởng rất lớn đối với đánh giá chủ quan về chi phí cho việc phạm những tội ác kèm theo. Chi phí cho hành động phạm tội đầu tiên cao vì sự không chắc chắn và chưa quen với tội ác. Khi một quan chức đã có hành vi tham nhũng thì chi phí cho hành vi phạm tội kèm theo sẽ giảm, tương tự như chi phí cận biên trong sản xuất của một công ty.
Một yếu tố quan trọng làm cho các quan chức dính vào tham nhũng là họ đã quen với với việc tìm kiếm lợi nhuận đặc quyền. Lí thuyết về lựa chọn công coi các quan chức như là những người đang hành nghề bán quyền sở hữu cho các nhóm lợi ích. Hành vi tìm kiếm lợi nhuận đặc quyền là "tham nhũng trong ý nghĩa rộng hơn của từ này. Sự phơi bày của “tham nhũng như vậy dường như làm cho các chính trị gia rất dễ bị cuốn vào tham những theo nghĩa hẹp hơn.
Động cơ của những người cung cấp và các quan chức chính phủ kết hợp để tạo thành cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cho cả hai bên Moore (1977) và Rose-Ackerman (1978) đã mô tả những hình thức tham nhũng và những khó khăn mà các nhà cung cấp cũng như các quan chức gặp phải trong thực tế.
Những biện pháp thực thi pháp luật được tăng cường còn có tác dụng mang tính tương tác đối với hiệu lực của ma túy và hội là vì nó làm thay đổi những đòi hỏi về vốn. Muốn gia tăng hiệu lực của những loại ma túy hiện hành hoặc những loại ma túy có hiệu lực cao hơn thì cẩn phải có nhiều vốn vật chất. Hiệu lực cao hơn thường đòi hỏi phải tinh chế và thiết bị phức tạp hơn. Nhung trong môi trường có nhiều rủi ro thì vốn cố định rất dễ bị phát hiện. Một lần nữa, so với các phương pháp khác, ví dụ như che giấu, thì hối lộ là thủ thuật giảm thiểu rủi ro hiệu quả.
Bên cạnh yêu cầu về vốn, tham nhũng ngày càng gia tăng vì những lí do đã được Benson và Baden (1985) mô tả. Trong phân tích của họ, chính phủ phình ra làm cho việc theo dõi và kiểm soát nhân viên trở nên khó khăn hơn. Số vụ bị phát hiện giảm cùng với số tiền thù lao lớn hơn sẽ làm cho tham nhũng gia tăng.
Nguồn: Mark Thorntom (2016). Kinh tế học cấm đoán. Phạm Nguyên Trường dịch. Nguyên tác: The Economics of Prohibition