[Chủ nghĩa tự do truyền thống] - Phụ lục
PHỤ LỤC
1. Tư liệu viết về chủ nghĩa tự do
Tôi muốn giữ cho cuốn sách này không quá dài. Điều này càng có lí vì tôi đã xem xét một cách kĩ lưỡng tất cả những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa tự do trong một loạt bài luận và các cuốn sách rồi.
Độc giả nào muốn tìm hiểu một cách kĩ lưỡng hơn, xin đọc những tác phẩm quan trọng nhất dưới đây.
Có thể tìm thấy tư tưởng của chủ nghĩa tự do trong trước tác của nhiều người cầm bút trước đây. Những nhà tư tưởng Anh và Scotland thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX là những người đầu tiên đã biến những tư tưởng này thành một hệ thống. Những người muốn làm quen với tư tưởng tự do cần đọc các tác phẩm sau: David Hume, Essays Moral, Political, and Literary (1741 and 1742), và Adam Smith, An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (1776).
Đặc biệt là các trước tác của Jeremy Bentham, từ Defense of Usury (1787) đến Deontology, or the Science of Morality, được xuất bản sau khi ông mất vào năm 1834. Trừ cuốn Dentology, tất cả các tác phẩm còn lại của ông đều được Bowring biên tập và xuất bản trọn bộ trong các năm 1838-1843.
John Stuart Mill là người kế tục chủ nghĩa tự do cổ điển, nhưng trong những năm cuối đời, do ảnh hưởng của bà vợ, ông đã có những thỏa hiệp quá nhu nhược. Ông đã trượt dần về phía chủ nghĩa xã hội và là người tạo ra những tư tưởng vô nghĩa, hỗn hợp giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội, đưa đến sự thoái trào của chủ nghĩa tự do Anh và xói mòn dần mức sống của người dân Anh. Tuy nhiên - hay chính vì thế mà - ta phải làm quen với những tác phẩm quan trọng nhất của Mill như:
Principles of Political Economy (1848);
On Liberty (1859)
Utilitarianism (1862).
Không nghiên cứu một cách kĩ lưỡng Mill thì không thể hiểu được các sự kiện trong hai thế hệ gần đây. Mill là người ủng hộ vĩ đại của chủ nghĩa xã hội. Tất cả những luận cứ bảo vệ chủ nghĩa xã hội đều được ông trau chuốt một cách cực kì cẩn thận. So với Mill thì tất cả các tác giả khác - kể cả Marx, Engels và Lassale - đều chẳng có mấy giá trị.
Không có kiến thức về kinh tế học thì không thể hiểu được chủ nghĩa tự do. Vì chủ nghĩa tự do chính là kinh tế học ứng dụng, nó là chính sách kinh tế và chính sách xã hội dựa trên nền tảng khoa học. Bên cạnh các trước tác vừa nêu, ta cũng cần làm quen với các bậc thầy vĩ đại trong môn kinh tế học nữa:
David Ricardo, Principles of Political Economy and Taxation (1817).
Sau đây là những cuốn dẫn nhập về kinh tế học tuyệt với nhất:
H. Oswalt, Vortrage uber wirtschaftliche Grundbegriffe (xuất bản nhiều lần); C. A. Verrijn Stuart, Die Grundlagen der Volkswirtschaft (1923).
Sau đây là những kiệt tác bằng tiếng Đức viết về kinh tế học hiện đại:
Carl Menger, Grundsatze der Volkswirtschaft (xuất bản lần đầu năm 1817). Bản dịch tiếng Anh phần I tác phẩm này có tên là Principles of Economics (Glencoe, Ill., 1950). Eugen von Bohm-Bawerk: The Positive Theory of Capital (New York, 1923). Tác phẩm đáng đọc nữa là:
Karl Marx and the Close of His System (New York, 1949).
Những đóng góp quan trọng nhất của các tác giả người Đức vào kho tàng tư liệu của chủ nghĩa tự do cũng gặp số phận không may, cũng như số phận của chính chủ nghĩa tự do ở Đức vậy. Tác phẩm On the Sphere and Duties of Government của Wilhelm von Humboldt (London 1854) được viết xong vào năm 1792. Một vài đoạn đã được Schiller trích đăng trong Neuen Thalia, ngay trong năm đó, một số đoạn khác được đăng trên tờ Berliner Monatsschrift. Nhưng do nhà xuất bản sợ, nên bản thảo đã bị bỏ lại và lãng quên; mãi sau khi tác giả mất người ta mới lại phát hiện và cho công bố.
Tác phẩm Entwicklung der Gezetze des menschlichen Verkehrs und der daraus fliessenden Regeln fur menschliches Handeln của Hermann Heirieh Gossen đã tìm được nhà xuất bản vào năm 1854, nhưng đã không được nhiều người tìm đọc. Tác phẩm này, cũng như tác giả của nó đã bị người đời lãng quên, may là nó đã được một người Anh tên là Adamson vô tình phát hiện được.
Tư tưởng tự do đã thấm vào thơ ca cổ điển Đức, mà trước hết là tác phẩm của Goethe và Schiller.
Chủ nghĩa tự do chính trị ở Đức có một lịch sử ngắn ngủi và cũng chẳng gặt hái được mấy thành công. Nước Đức hiện đại - trong đó có cả những người ủng hộ lẫn chống đối hiến pháp Weimar - là một thế giới xa lạ với tinh thần của chủ nghĩa tự do. Người Đức không còn biết chủ nghĩa tự do là gì, nhưng họ biết cách chửi rủa nó. Lòng hận thù chủ nghĩa tự do là điều duy nhất gắn kết người Đức lại với nhau. Những tác phẩm mới nhất viết bằng tiếng Đức về chủ nghĩa tự do đáng được quan tâm là: Der Liberalismus in Vergangenheit und Zukunft (1917), Staatssozialismus (1916), và Freie Wirtschaft (1918) của Leopold von Wiese.
Có lẽ chưa bao giờ luồng gió của chủ nghĩa tự do đến được với người dân Đông Âu.
Mặc dù ngay cả Tây Âu và hợp chủng quốc Hoa Kì tư tưởng tự do cũng đang đi vào thoái trào, nhưng nếu so với Đức thì ta vẫn có thể gọi đấy là những dân tộc tự do.
Người cầm bút có tư tưởng tự do thế hệ trước cần phải đọc là Frederic Bastiat: Oevres Completes (Paris, 1855). Bastiat là người có bút pháp rất độc đáo, đọc ông là cả một niềm vui. Sau khi ông qua đời, lí thuyết kinh tế phát triển như vũ bão cho nên không có gì ngạc nhiên là học thuyết của ông đã trở thành lỗi thời. Nhưng những lời phê phán của ông đối với tất cả những biện pháp bảo hộ và những xu hướng liên quan đến nó thì vẫn chưa ai vượt qua được. Những người theo chính sách bảo hộ và can thiệp không thể phủ nhận được. Họ đành phải lặp đi lặp lại rằng: Bastiat rất "hời hợt".
Khi đọc sách báo chính trị viết bằng tiếng Anh trong thời gian gần đây ta phải nhớ rằng từ "liberalism" thường được hiểu là chủ nghĩa xã hội ôn hòa. Liberalism (1911) của tác giả người Anh, tên là L.T.Hobhouse, và Economic Liberalism (1925) của tác giả người Mĩ, tên là Jacob H. Hollander, là những tác phẩm trình bày một cách súc tích về chủ nghĩa tự do. Để làm quen kĩ hơn với tư tưởng của những người theo trường phái tự do Anh, nên đọc thêm các tác phẩm: The Case for Capitalism (1920) của Hartley Withers, The Confessions of a Capitalist (1925), If I Were a Labor Leader (1926), The Letters of an Individualist (1927), The Return to Laisser Faire (London,1928) của Ernest J.P. Benn. Cuốn The Letters of an Individualist (1927) có liệt kê các tác phẩm bằng tiếng Anh viết về những vấn đề cơ bản của hệ thống kinh tế.
Phê phán chính sách bảo hộ được Francis W. Hirst trình bày trong tác phẩm Safeguarding and Protection (1926).
Bản ghi lại cuộc tranh luận công khai ở New York diễn ra vào ngày 23 tháng 1 năm 1921 giữa E.R.A. Seligman và Scott Nearing về đề tài : "That capitalism has more to offer to the workers of the United States than has socialism" cũng rất có giá trị.
Lí thuyết xã hội học được giới thiệu trong các tác phẩm La cite moderne của Jean Izoulet (xuất bản lần đầu năm 1890), và Community (1924) của R.M. Maclver.
Lịch sử các tư tưởng kinh tế được giới thiệu trong các tác phẩm: Histoire des doctrines enconomiques của Charles Gide và Charles Rist (in nhiều lần), L'individualisme economique et social (1907) của Albert Schatz, và Die Philosophie der Geschichte als Soziologie (in nhiều lần) của Paul Barth.
Vai trò của các chính đảng được Walter Sulzbach xem xét trong tác phẩm Die Grundlagen der Politischen Parteibildung (1921)
Chủ nghĩa tự do Đức được Oskar Klein-Hattingen giới thiệu trong tác phẩm Geschichte des deutschen Liberalismus (1911/1912, hai tập), còn Guido de Rugaiero thì giới thiệu chủ nghĩa tự do ở châu Âu trong tác phẩm The History of European Liberalism (Oxford, 1927).
Cuối cùng xin dẫn ra đây các tác phẩm của chính tôi, có liên quan đến đề tài chủ nghĩa tự do: Nation, Staat und Wirtschaft: Beitrage zur Politik und Geschichte der Zeit (1919), dịch sang tiếng Anh (1983); Antimarxismus (Weltwirtschaftliches Archiv, Vol. XXI, 1925); Kritik des Interventionismus (1929), dịch sang tiếng Anh (1977); Socialism (1936), Planned Chaos (1951), Omnipotent Government (1944), Human Action (1949), The Anti-Capitalistic Mentality (1956).
2. Bàn về thuật ngữ "Chủ nghĩa tự do"
Những người đã từng quen với các tác phẩm viết về chủ nghĩa tự do trong những năm trước đây và với cách sử dụng trong sách báo chính trị hiện nay có thể phản bác rằng cái gọi là chủ nghĩa tự do trong tác phẩm này không phải là cái mà thuật ngữ hiện nay ám chỉ. Tôi hoàn toàn không có ý định bác bỏ điều này. Trái lại, như tôi đã chỉ rõ: hiện nay, nhất là ở Đức, thuật ngữ này ám chỉ điều hoàn toàn ngược lại với cái mà lịch sử tư tưởng từng gọi là "chủ nghĩa tự do", tức là nội dung chủ yếu của cương lĩnh tự do trong các thế kỉ XVIII và XIX. Hầu như tất cả những người hiện nay tự xưng là "người tự do" đều không ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mà lại ủng hộ những biện pháp can thiệp và chủ nghĩa xã hội. Họ tìm cách biện hộ rằng bản chất của chủ nghĩa tự do không phải là tôn trọng quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mà là phát triển chủ nghĩa tự do để nó không còn ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất nữa, mà ngược lại ủng hộ chủ nghĩa xã hội hoặc chủ nghĩa can thiệp.
Có thể những người theo trường phái tự do giả mạo đó phải khai minh cho chúng ta "phát triển chủ nghĩa tự do" nghĩa là thế nào. Chúng ta đã nghe nói nhiều về lòng nhân đạo, tính khoan dung và tự do thật sự v.v. Đấy là những tình cảm trong sáng và cao thượng, và ai cũng tán thành. Trừ một vài trường phái tư tưởng vô liêm sỉ, còn tất cả những hệ tư tưởng khác đều tin rằng họ ủng hộ lòng nhân ái, tính khoan dung và tự do thực sự v.v. Sự khác nhau giữa các hệ tư tưởng không phải là mục đích tối thượng - hạnh phúc cho tất cả mọi người mà tất cả các hệ tư tưởng này đều nhắm đến - mà là biện pháp thực hiện mục đích đó. Đặc trưng của chủ nghĩa tự do là sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.
Nhưng, cuối cùng thì vấn đề thuật ngữ cũng chỉ có tầm quan trọng thứ yếu mà thôi. Quan trọng không phải là tên gọi mà là cái mà nó thể hiện. Nhưng một người dù có chống đối quyền tư hữu đến mức nào đi nữa thì ít nhất người đó cũng phải công nhận rằng người khác có thể ủng hộ nó. Và khi đã công nhận như thế thì dĩ nhiên là phải để cho người ta tìm tên gọi đặt cho trường phái tư tưởng đó. Cần phải hỏi những người tự nhận mình là người theo phái tự do xem họ định dùng tên gì để gọi hệ tư tưởng ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Có khả năng là họ sẽ trả lời rằng họ muốn gọi hệ tư tưởng này là "Manchesterism"1. Ban đầu từ "Manchesterism" là một từ dùng để giễu cợt và sỉ nhục. Tuy nhiên, điều đó cũng không cản trở việc dùng từ này để biểu thị hệ tư tưởng của chủ nghĩa tự do, nếu không có việc từ trước đến nay từ này vẫn được dùng để chỉ chương trình kinh tế chứ không phải là cương lĩnh của chủ nghĩa tự do.
Dù sao mặc lòng, trường phái tư tưởng ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất cũng phải có một cái tên. Tốt nhất là hãy bám lấy truyền thống. Chỉ có một rắc rối. Đấy là khi người ta dùng từ này theo lối mới, khi đó ngay cả nhưng người ủng hộ chính sách bảo hộ, những người xã hội chủ nghĩa, thậm chí cả những kẻ hiếu chiến cũng tự nhận là "người tự do", nếu được lợi.
Một câu hỏi được đặt ra là liệu ta có nên đặt cho hệ tư tưởng tự do một cái tên mới để tạo điều kiện cho việc truyền bá các tư tưởng tự do, khiến cho những thiên kiến chống lại nó, đặc biệt là ở Đức, không còn chỗ đứng nữa. Đây là một đề nghị đầy thiện chí nhưng lại hoàn toàn trái với tinh thần của chủ nghĩa tự do. Từ nhu cầu nội tại, chủ nghĩa tự do phải tránh mọi mánh lới tuyên truyền và những phương tiện dối trá nhằm giành được sự thừa nhận của mọi người đối với phong trào, cũng như không được từ bỏ tên gọi cũ chỉ vì nó không còn thông dụng. Chính vì ở Đức từ "người theo phái tự do" có ý nghĩa tiêu cực cho nên chủ nghĩa tự do phải bám lấy nó. Không thể dễ dàng đưa mọi người đến tư duy tự do, vì quan trọng không phải là tuyên bố rằng mình là người theo phái tự do mà là trở thành người theo phái tự do, suy nghĩ và hành động như những người theo phái tự do.
Người ta cũng có thể phản bác thuật ngữ được sử dụng trong tác phẩm này vì là chủ nghĩa tự do và chế độ dân chủ ở đây không được coi là những khái niệm trái ngược nhau. Hiện nay ở Đức "chủ nghĩa tự do" thường được dùng để chỉ học thuyết với lí tưởng chính trị là chế độ quân chủ hiến định, còn "dân chủ" được coi là học thuyết với lí tưởng chính trị là chế độ quân chủ đại nghị của phái cộng hòa. Quan điểm này, ngay cả về mặt lịch sử, cũng không đứng vững được. Chủ nghĩa tự do đấu tranh cho chế độ quân chủ đại nghị chứ không phải chế độ quân chủ hiến định, về mặt này thì nó đã thất bại chính vì chỉ ở Đức và Áo nó mới giành được chế độ quân chủ hiến định. Các lực lượng bài chủ nghĩa tự do giành được chiến thắng là do quốc hội Đức quá yếu; đấy là câu lạc bộ của những kẻ - nói một cách không được lịch sự nhưng mà đúng - "ba hoa chích chòe". Lãnh tụ của đảng bảo thủ đã nói rất chính xác: muốn giải tán quốc hội thì chỉ cần một viên trung úy với mươi người là đủ.
Chủ nghĩa tự do là khái niệm bao trùm nhất. Đấy là hệ tư tưởng bao quát toàn bộ đời sống xã hội. Hệ tư tưởng của chế độ dân chủ chỉ bao gồm lĩnh vực quan hệ có liên quan tới cơ cấu nhà nước. Phần thứ nhất của tác phẩm này đã trình bày lí do vì sao chủ nghĩa tự do nhất định phải đòi cho bằng được chế độ dân chủ, chế độ dân chủ cũng là hậu quả chính trị tất yếu của chủ nghĩa tự do. Chứng minh rằng tất cả các phong trào bài chủ nghĩa tự do, trong đó có chủ nghĩa xã hội, chắc chắn cũng là những phong trào phi dân chủ là nhiệm vụ của những công trình nghiên cứu nhằm đưa ra một bản phân tích toàn diện đặc trưng của những hệ tư tưởng đó. Tôi đã thử làm việc đó đối với chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm cùng tên.
Người Đức dễ bị nhầm lẫn vì họ luôn nghĩ đến những người tự do mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa và dân chủ xã hội. Nhưng những người tự do mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa, ngay từ khởi thủy - ít nhất là trong vấn đề hiến pháp - đã không phải là đảng tự do. Họ là cánh của đảng tự do cổ điển, tức là cánh tự nhận là có quan điểm dựa vào "thực tế như chúng vốn là". Họ coi thất bại mà chủ nghĩa tự do phải chịu trong cuộc xung đột hiến pháp giữa phái "hữu" (Mismarck) và phái "tả" (người theo phái Lassalle) là không thể đảo ngược. Những người dân chủ xã hội chỉ dân chủ khi họ không phải là đảng cầm quyền, nghĩa là khi họ chưa cảm thấy đủ mạnh để có thể đàn áp phe đối lập bằng vũ lực. Ngay khi nghĩ rằng mình là người mạnh nhất, họ liền tuyên bố ủng hộ chế độ độc tài - những người cầm bút của họ còn khẳng định rằng tốt nhất là tuyên bố ngay lúc đó. Chỉ khi các băng nhóm vũ trang của các đảng cánh hữu giáng cho họ những đòn đau họ mới lại trở thành những người dân chủ. Những người cầm bút trong đảng của họ viết về chuyện đó như sau: "Trong các hội đồng của các đảng dân chủ xã hội, cánh ủng hộ dân chủ đã thắng cánh ủng hộ chế độ độc tài".
Chỉ có đảng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào - ngay cả khi nó là đảng mạnh nhất và đang nắm quyền - cũng luôn ủng hộ các thể chế dân chủ, mới có thể được coi là đảng thực sự dân chủ.
3. Lời nhà xuất bản (Nga) Về tác phẩm Chủ nghĩa tự do truyền thống
Ở nước ta, đến mãi thời gian gần đây cũng chỉ có một nhóm các nhà kinh tế học thuộc loại tinh hoa biết đến tên tuổi và tác phẩm của L. V. Mises (1881-1973). Nhưng, mặc dù đã có những thay đổi về mặt chính trị, việc xuất bản các tác phẩm của ông vẫn là một sự kiện. Độc giả sẽ tìm thấy trong tác phẩm này câu trả lời rõ ràng cho những vấn đề đã trở thành đối tượng cho những cuộc tranh luận nảy lửa trong những nhóm người đang giữ vai trò quyết định tương lai xã hội và chính trị của nước Nga: đi theo con đường nào - thị trường tự do hay là sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế? Nguồn gốc kinh tế của chế độ dân chủ hay sự độc đoán chuyên quyền của các quan chức, các băng nhóm lợi ích - hay là mafia, chủ nghĩa can thiệp và chủ nghĩa xã hội - được Mises phân tích một cách thấu đáo trong tác phẩm mà bạn đọc đang cầm trên tay. Tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên ở Áo năm 1927, tức là trong giai đoạn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và cùng với nó là các phong trào chính trị xuất hiện. Trong tình hình như thế, phải là một người đầy ý chí, kiên định về trí tuệ và lòng dũng cảm công dân mới có thể tiếp tục bảo vệ được lí tưởng của thị trường tự do.
Lời nói đầu bản tiếng Nga
Gans F. Sennhols, Giáo sư Kinh tế và Trưởng khoa Kinh tế của Grove city College, bang Pennsyvania, Mĩ
Người xấu thì không thể trở thành công dân tốt được. Một dân tộc gồm toàn những kẻ lười biếng và trộm cắp thì không thể trở nên giàu có được; một xã hội gồm toàn những kẻ nghiện hút và sùng bái thần tượng thì không thể trở nên tự do được. Khi người dân đánh mất sự tôn trọng đối với sở hữu và tình yêu lao động thì cũng có nghĩa là họ đã đánh mất thước đo duy nhất của sự trưởng thành và phương tiện duy nhất của sự tự hoàn thiện. Khi người ta đã hi sinh sự độc lập và lòng tin vào sức mạnh của chính mình thì cũng là lúc những tên độc tài xuất hiện và vòng xiềng xích lên đầu lên cổ họ.
Hướng đến tự do là nguyên tắc căn bản nhất của xã hội. Còn con người thì không thể không đấu tranh để giành tự do - tự do phát biểu ý kiến, tự do thể hiện và thảo luận những quan điểm của mình, tự do lập hội và lập đảng, tự do bầu cử và thay đổi chính phủ, tự do bỏ phiếu cho những người đại diện cho mình, tự do tổ chức đời sống kinh tế và xã hội theo ý mình - với điều kiện là những việc đó không phá hoại cuộc sống hòa bình. Sống tự do, nghĩa là làm theo cách của mình, nhận công việc mà mình cho là phù hợp, tự do mua và bán thành quả lao động của mình. Là người tự do, nghĩa là không gặp cản trở và khó khăn trong những hoạt động kinh tế và khát vọng của mình.
Chủ nghĩa tự do là hệ tư tưởng và cương lĩnh chính trị của những con người tự do. Ít nhất người ta đã gọi nó như thế trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài, và L. V. Mises cũng gọi như thế trong những tác phẩm của ông. Chủ nghĩa tự do là hệ tư tưởng giữ thế thượng phong ở Anh trong giai đoạn giữa cuộc Cách mạng vĩ đại (1688) và cuộc Cải cách (1876) (cải cách hệ thống bầu cử - ND), và là một phong trào chính trị và xã hội rộng lớn trên toàn thế giới. Những yêu cầu đầu tiên của nó là lòng khoan dung tôn giáo và tự do tôn giáo, tôn trọng hiến pháp và quyền con người, và đến lượt nó, những yêu cầu này đã tạo động lực mạnh mẽ cho lí thuyết và thực hành tự do kinh tế. Các nhà kinh tế học cổ điển người Pháp và các nhà kinh tế học theo trường phái tự do người Anh đã đưa ra định đề kinh tế gọi là laissez-faire, nghĩa là quyền sở hữu không bị cản trở đối với tư liệu sản xuất và thị trường tự điều tiết, không bị chính trị can thiệp làm cho rối loạn.
L. V. Mises cho rằng hệ thống sở hữu tư nhân, thường gọi là chủ nghĩa tư bản, là hệ thống kinh tế và xã hội khả thi duy nhất. "Chỉ có lựa chọn duy nhất là giữa sở hữu xã hội và sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất - ông khẳng định như thế. Tất cả những hình thức tổ chức xã hội mang tính trung gian đều vô ích, và trên thực tế sẽ là những hình thức tự hủy diệt. Nếu hiểu thêm rằng chủ nghĩa xã hội cũng không thể hoạt động được thì không thể không công nhận rằng chủ nghĩa tư bản, dựa trên sự phân công lao động, là hệ thống tổ chức xã hội khả thi duy nhất. Kết quả nghiên cứu lí thuyết như thế không phải là điều có thể làm cho nhà sử học và triết gia trong lĩnh vực lịch sử ngạc nhiên. Nếu chủ nghĩa tư bản có thể đứng vững được, mặc cho sự thù địch từ phía chính phủ cũng như từ phía dân chúng, nếu như nó không phải nhường chỗ cho những hình thức hợp tác xã hội được lòng các lí thuyết gia và những người hoạt động trên thực tế thì đấy chính là vì những hình thức tổ chức xã hội khác nhau đều bất khả thi".
Không phụ thuộc vào kiến thức của ta về thành tựu của chủ nghĩa tư bản, chúng ta cũng không thể không thán phục những đặc điểm đã vượt qua được thử thách của thời gian và vẫn không tàn úa của nó. Các giáo sư đã lên án nó vì cho rằng nó tạo ra hiện tượng người bóc lột người, nó sinh ra nạn độc quyền và nhóm độc quyền, nạn thất nghiệp và tổn thất ngày càng gia tăng. Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn đứng vững. Các nhà đạo đức học và các cố đạo lên án nó về lĩnh vực đạo đức và văn hóa. Nhưng, mặc cho những lời nguyền rủa, chủ nghĩa tư bản vẫn sống. Các chính trị gia tiếp tục bàn tán về nhu cầu cấp bách của lĩnh vực công; nhưng kinh tế tư nhân tiếp tục tồn tại, mặc cho những cản trở từ khu vực công. Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tiếp tục tồn tại ngay trong những khu vực tăm tối nhất của thế giới, mặc cho những đạo luật mà các nhà làm luật có thể đưa ra nhằm chống lại nó, hay những khó khăn mà các chính phủ có thể gây ra cho các doanh nhân. Hay là sở hữu tư nhân và trật tự xã hội dựa trên sở hữu tư nhân đã ăn sâu bén rễ vào ngay cả trong bản chất của con người?
Thật khó tìm được ở đâu đó trên thế giới này hệ thống tư bản chủ nghĩa không chịu bất kì cản trở nào. Các chính phủ cản thiệp vào hầu như bất kì biểu hiện nào của đời sống kinh tế. Họ lập ra những luật thuế ăn cướp đối với quá trình sản xuất và phân phối, nhưng các nghiệp chủ và các nhà tư bản vẫn làm ra rất nhiều hàng hóa và cung cấp cho ta đủ loại dịch vụ. Các chính phủ điều tiết và hạn chế sức sản xuất, nhưng trật tự, dựa trên sở hữu tư nhân, dù đã bị bóp méo và ngăn chặn, vẫn tiếp tục tồn tại trọng lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Chính phủ đặt ra mức lương và can thiệp vào cơ cấu giá cả, nhưng hệ thống thị trường vẫn tiếp tục tồn tại trên thị trường chợ đen và hoạt động bất hợp pháp. Chính phủ tạo ra lạm phát và nới lỏng tín dụng, và sử dụng luật pháp để điều tiết các phương tiện thanh toán, nhưng sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp tục tồn tại trong lúc hệ thống tiền tệ suy sụp. Chính phủ ban cho các tổ chức
công đoàn những đặc quyền đặc lợi về mặt kinh tế và không thể tác động về mặt pháp luật, nhưng cuối cùng thì sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Chính phủ dính líu vào những cuộc chiến tranh, nhưng khi những cuộc chém giết chấm dứt, và chính phủ không còn gì để kế hoạch hóa, để phân phối bằng tem phiếu và bằng vũ lực nữa, thì chủ nghĩa tư bản lại hồi sinh. Chủ nghĩa tư bản là câu chuyện thần kì của quá trình tái thiết và phát triển.
Trong phần lớn các khu vực trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đã trở thành nơi trú ngụ cuối cùng. Khi chế độ toàn trị chỉ mang đến đói nghèo, khi tất cả những biện pháp áp bức về mặt chính trị đều thất bại, và khi những bộ óc của các chính trị gia không còn phát minh ra những điều ngu xuẩn về mặt kinh tế, khi công an mệt mỏi, không còn điều tiết kinh tế nữa, và khi các tòa án bị tê liệt vì quá nhiều tội phạm kinh tế thì đấy chính là lúc xuất hiện hệ thống tư hữu. Hệ thống này không cần phải có kế hoạch chính trị, không cần luật pháp kinh tế, không cần công an kinh tế, nó chỉ cần tự do.
Chủ nghĩa tư bản lại một lần nữa xuất hiện ở châu Âu vào đầu những năm 1980, tức là một thời gian dài trước khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Sau khi chiếm được quyền lực, ở đâu chế độ toàn trị cũng chỉ để lại những vết nhơ. Tình hình kinh tế lạc hậu, thậm chí xấu đi trong toàn khối xã hội chủ nghĩa, trong khi chủ nghĩa tư bản mang đến sự thịnh vượng và giàu có cho phần còn lại của thế giới. Ngôi sao của chủ nghĩa tư bản đang vươn lên trên bầu trời châu Á, mang đến hi vọng cho những con người nghèo đói và bị áp bức ở châu lục này.
Ánh sáng của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào cả Liên Xô trong suốt giai đoạn hậu chiến. Dù bức màn sắt có mạnh mẽ và kín đến mức nào thì nó cũng không thể chống lại được sức mạnh của ý tưởng. Thông qua tất cả các kênh thông tin, những ý tưởng này đã xuyên qua được bức màn sắt và cắm được những cái rễ chắc chắn vào trái tim và khối óc của rất nhiều người. Hàng triệu nạn nhân của chế độ phi nhân tính toàn trị đã nhận thức được quyền tự do của con người và hệ thống tư hữu. Họ đã trở thành những người "theo trường phái tự do", thành những người khao khát tự do và hòa bình - những nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa tự do. Sự tan rã một cách hòa bình đế chế Liên Xô là bằng chứng rõ ràng về sức mạnh của tư tưởng tự do.
Nhận thức chung của mọi người về sự thịnh vượng ngày càng rõ ràng và gia tăng tại các nước có nền kinh tế thị trường là tác nhân quan trọng nhất của quá trình thay đổi. Đến giữa những năm 1980, ngay cả những kẻ cầm quyền đui mù nhất cũng không thể không thấy rằng khoảng cách giữa các nước có nền kinh tế thị trường và các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy, và cùng với nó là điều kiện sống của rất nhiều người, đang ngày càng gia tăng. Trong những năm 1970, lần đầu tiên các nền kinh tế thị trường ở châu Á gia tăng được gấp đôi sản lượng, và trong những năm 1980 là lần gia tăng thứ hai.
Ở nước Nga, mặc cho sự phản kháng của những người xã hội chủ nghĩa thế hệ cũ, những cuộc cải cách chính trị và kinh tế đang được tiến hành một cách khẩn trương. Sự ủng hộ của dân chúng đối với tiến trình giải tư chính là động lực của nó. Chính sách giải tư nhận được sự ủng hộ ngày càng tăng của dân chúng cũng như chính quyền, và quay trở lại quá khứ là việc làm bất khả.
Quyền sở hữu tư nhân là cội rễ của bất kì hệ thống tư bản chủ nghĩa nào. Ở nước Nga nó mới chỉ tạo được những mầm cây đầu tiên. Mong rằng việc xuất bản tác phẩm quan trọng này sẽ giúp che chở và củng cố những mầm cây ban đầu đó.
CHÚ THÍCH
(1) Manchesterism - Các chính sách và nguyên lí được trường phái kinh tế học ở Manchester (Anh) truyền bá - ND
Nguồn bản gốc: Liberalism - The Classical Tradition. Edited by Bettina Bien Greaves, Liberty Fund, Inc. 2005
Nguồn bản dịch: Mises, Ludwig von (2013[1927]). Chủ nghĩa tự do truyền thống. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính. NXB Tri Thức. Nguyên tác: Liberalism (1927) Liberalismus (bản tiếng Đức)