Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 4)
Đường biên giới theo thứ tự niên đại hiếm khi là những cảnh tượng trong lịch sử tư tưởng, và dòng chảy [tư tưởng] của thế kỉ cũ, bất chấp tất cả những vẻ bề ngoài không cưỡng lại được, có vẻ như vẫn chảy một cách hiền hòa vào thế kỉ mới. Bây giờ thì bức tranh bắt đầu biến đổi. Chủ nghĩa tự do nhân bản ngày càng đụng độ nhiều hơn với những cản trở cho nhiệt tình cải cách của nó từ thái độ đối lập có ý thức hay vô thức của cả chính quyền lẫn những trung tâm quyền lực xã hội khác, cũng như từ kháng cự thụ động của các định chế và tập quán đã được thiết lập. Nhữngnhà cải cách mang tính chiến đấu tự thấy mình buộc phải sử dụng ngày càng nhiều hơn các biện pháp cấp tiến trong việc tổ chức các giai cấp của dân chúng, mà nhân danh những giai cấp ấy họ đã tranh đấu, để tạo thành một thứ gì đó đủ hùng mạnh nhằm hoạt động có hiệu quả chống lại giới quyền uy cũ.
Lịch sử của biến đổi từ chiến thuật chầm chậm từng bước theo kiểu hội Fabian26 chuyển thành các tổ chức mang tính chiến đấu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa công đoàn, cũng như chuyển thành các tổ chức ôn hòa hơn của nền dân chủ xã hội và chủ nghĩa nghiệp đoàn, [thực chất] là lịch sử của các tương tác qua lại giữa chúng với các sự kiện vật chất mới mẻ, hơn là lịch sử của các nguyên lí. Theo một nghĩa nào đó chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân văn lí luận cố chấp bị đẩy tới cực đoan trong việc theo đuổi các phương pháp tấn công và phòng thủ hữu hiệu. Không có phong trào nào mà thoạt nhìn lại khác biệt gay gắt đến thế với chủ nghĩa cải lương tự do như chủ nghĩa Marx, vậy mà các học thuyết cốt yếu - tính hoàn hảo nhân văn, khả năng tạo ra một xã hội hài hòa bằng các phương tiện tự nhiên, niềm tin vào tính khả dĩ tương hợp (thực ra là tính không thể tách rời) của tự do và bình đẳng - là chung cho cả hai chủ nghĩa ấy. Biến đổi lịch sử có thể xảy ra một cách liên tục hay trong những bước nhảy vọt đột ngột mang tính cách mạng, nhưng nó phải tiến triển phù hợp với một khuôn mẫu gắn bó logic và có thể nhận thức được, mà việc từ bỏ nó luôn luôn là điên rồ, luôn luôn là Không tưởng. Không một ai nghi ngờ rằng chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội là đối lập với nhau gay gắt cả về các mục đích lẫn các phương tiện: vậy mà ở bên lề của chúng, chúng lại chuyển dần sang nhau27. Chủ nghĩa Marx là một học thuyết mà dù nó có nhấn mạnh đến đâu bản chất giai cấp mang tính quyết định cho hành động và tư tưởng, nhưng trong lí thuyết vẫn kêu gọi tới lí trí, ít nhất cũng đối với giai cấp có sứ mệnh lịch sử phải chiến thắng - duy nhất giai cấp vô sản mình nó có thể đối diện vớỉ tương lai không nao núng, bởi nó không nhất thiết bị ép buộc phải xuyên tạc các sự kiện về việc tương lai có thể đem lại điều gì. Và như một hệ luận, điều này cũng áp dụng cho những nhà trí thức tự giải phóng mình khỏi những thành kiến và biện bạch - “những méo mó ý thức hệ” của giai cấp kinh tế của họ - và tự nguyện đứng vào hàng ngũ với phe thắng lợi trong cuộc đấu tranh xã hội. Đối với họ, vì họ là hoàn toàn duy lí, nên những đặc quyền của nền dân chủ và của việc tự do sử dụng mọi khả năng trí tuệ của họ, có thể là hòa hợp với nhau. Họ đối với những người theo chủ nghĩa Marx thì cũng giống như các nhà philosophes khai minh đối với nhóm Bách khoa toàn thư (Encyclopaedists) vậy: nhiệm vụ của họ là giải phóng người ta khỏi “ý thức sai lầm” và giúp cho việc thực hiện những phương tiện rồi sẽ biến chuyển tất cả những ai có được khả năng đó về mặt lịch sử thành những người tự giải phóng mình và có lí tính thực sự.
Nhưng vào năm 1903 đã diễn ra một sự kiện đánh dấu đỉnh điểm quá trình biến đổi lịch sử thế giới của chúng ta. Tại đại hội lần thứ Hai của Đảng Xã hội Dân chủ Nga diễn ra vào năm đó, khai mạc ở Brussels và bế mạc ở London, trong lúc thảo luận một vấn đề mà ban đầu có vẻ như đơn thuần là một vấn đề kĩ thuật - việc tập quyền cho trung ương và kỉ luật thứ bậc phải đi xa đến đâu trong việc chế ngự hành vi của Đảng - một đại biểu, có tên là Mandel’berg nhưng lấy bí danh28 là Posadovsky, đã tranh luận rằng việc nhấn mạnh của những người theo xã hội chủ nghĩa “cứng rắn” - Lenin và các đồng chí của ông - về sự cần thiết phải thực hành quyền uy tuyệt đối của những hạt nhân cách mạng của Đảng, có thể bất tương hợp với những quyền tự do cơ bản mà chủ nghĩa xã hội chính thức nguyện cống hiến cho việc thực hiện chúng, không kém hơn chủ nghĩa tự do. Ông ta khẳng định rằng cái tối thiểu cơ bản của những quyền tự do dân sự - “tính thiêng liêng của con người” phải bị xâm hại và thậm chí phải bị vi phạm nếu như các nhà lãnh đạo đảng quyết định như thế.29 Ông ta đã được ủng hộ bởi Plekhanov, một trong những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Marx của Nga, và là nhân vật được sùng kính nhất của nó, một học giả có văn hóa, rất khó tính và nhạy cảm về đạo đức, là người có tầm nhìn rộng lớn đã từng có hai mươi năm sống ở Tây Âu và được các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa phương Tây rất kính trọng, đích thực là biểu tượng của tư duy “khoa học” văn minh trong số những nhà cách mạng Nga. Plekhanov nói sai ngữ pháp thật trịnh trọng, một cách tuyệt vời, tuyên đọc những lời “Salus revolutiae suprema lex”30. Chắc chắn rồi, nếu cách mạng đòi hỏi điều đó thì mọi thứ - nền dân chủ, tự do, các quyền của cá nhân - phải bị hi sinh cho nó. Nếu quốc hội dân chủ được nhân dân Nga bầu ra sau cách mạng đã chứng tỏ dễ vâng theo các chiến thuật Marxist, nó có thể được duy trì như một Nghị viện kéo dài mãi, nếu không, nó có thể được giải thể nhanh nhất như có thể. Một cuộc cách mạng Marxist không thể thực hiện thành công bởi những người bị ám ảnh bởi việc lưu tâm quá tỉ mỉ đến những nguyên tắc của những người theo chủ nghía tự do tư sản. Chắc chắn là những gì có giá trị trong những nguyên tắc ấy, cũng giông mọi thứ tốt đẹp và đáng mong muốn, cuối cùng sẽ được thực hiện bởi giai cấp lao động chiến thắng; nhưng trong thời kì cách mạng đang diễn ra mà bận tâm tới những lí tưởng như thế thì đó là bằng chứng của thái độ thiếu nghiêm chỉnh. Plekhanov, người được nuôi dạy trong truyền thống nhân văn và tự do, tất nhiên sau đó tự mình đã thoái lui khỏi lập trường này. Pha trộn của niềm tin Không tưởng và thái độ coi thường thật tàn nhẫn đối với đạo đức văn minh, rốt cuộc cũng tỏ ra thật quá ghê tởm đối với một người đã sống phần lớn cuộc đời văn minh và phong phú của mình giữa những người công nhân phương Tây và các nhà lãnh đạo của họ. Giống như số đông những người Dân chủ xã hội, giống như bản thân Marx và Engels, ông ta mang quá nhiều chất châu Âu, nên không sao có thể có thực hiện một chính sách “xuất phát từ tự do vô giới hạn [đi đến] một nền chuyên chế vô giới hạn”, như lời của [nhân vật] Shigalev trong tác phẩm Những người bị quỷ ám của Dostoevsky31. Thế nhưng bản thân Lenin (giống như chính Posadovsky) đã chấp nhận các tiền đề, và bị lôi cuốn theo logic đi tới các kết luận hết sức khó chịu cho phần đông các đồng sự của ông, đã chấp nhận những kết luận ấy một cách dễ dàng và không có vẻ gì băn khoăn cả. Những giả định của ông ta có lẽ theo một nghĩa nào đó, vẫn còn là những giả định của những người theo chủ nghĩa duy lí đầy lạc quan ở thế kỉ 18 và 19: ép buộc, bạo lực, các cuộc hành quyết, đàn áp toàn bộ những khác biệt cá nhân, nền cai trị của một thiểu số nhỏ, hầu như tự phong, [những thứ] là tất yếu chỉ trong thời kì tạm thời, chỉ trong chừng mực có một kẻ thù hùng mạnh cần phải tiêu diệt. Những thứ ấy là tất yếu chỉ nhằm để cho số đông nhân loại có thể phát triển (một khi số đông ấy được giải phóng khỏi tình trạng những kẻ bất lương bóc lột những kẻ ngu ngốc và những kẻ bất lương hùng mạnh hơn bóc lột những kẻ bất lương yếu thế) - số đông ấy sẽ không còn bị ngăn trở bởi tình trạng ngu dốt hay nạn thất nghiệp hay tệ nạn xã hội nữa, cuối cùng họ sẽ được tự do để thực hiện trong khả năng đầy đủ nhất của họ những tiềm năng phong phú vô hạn của bản chất con người. Có thể giấc mơ ấy quả thực có những nét tương đồng với những giấc mơ của Diderot hay Saint-Simon hay Kropotkin32, nhưng điều nổi bật như thứ gì đó tương đối mới mẻ, là giả định về những phương tiện đòi hỏi để biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Và điều giả định, dù có vẻ như chỉ liên quan đến các phương pháp, và được đề xuất bởi Babeuf33 hay Blanqui34 hay Tkachev35 hay những người Công xã Pháp - hoặc là, và chắc là như vậy, từ chính những trước tác của Marx viết vào thời kì năm 1847-1851 - là rất khác biệt với cương lĩnh thực tiễn được trình bày bởi những người xã hội chủ nghĩa phương Tây “tích cực” nhất và ít “tiến hóa luận” nhất vào cuối thế kỉ 19. Khác biệt là mang tính quyết định và đánh dấu sự ra đời của một thời đại mới.
Điều Lenin đòi hỏi là một quyền lực vô hạn cho một nhóm nhỏ các nhà cách mạng chuyên nghiệp, được huấn luyện chỉ cho một mục tiêu, và không ngừng theo đuổi mục tiêu ấy bằng bất cứ phương tiện nào mà họ có được. Điều này là tất yếu bởi các phương pháp dân chủ và những toan tính thuyết phục và thuyết giảng do các nhà cải cách và những người chống đối trước đây sử dụng, đều đã không có hiệu quả; và chuyện này về phần mình là do họ dựa vào tâm lí học, xã hội học và lí thuyết lịch sử sai lầm - đó làgiả định rằng người ta đã hành động như đã làm thế là do những niềm tin có ý thức, mà những niềm tin ấy có thể bị thay đổi bởi luận cứ. Bởi nếu như Marx đã làm được điều gì đó, thì chắc chắn là Marx đã chứng tỏ được rằng, những niềm tin và những lí tưởng như thế chỉ đơn thuần là “những phản ánh” về điều kiện của những giai cấp xác định về mặt xã hội và kinh tế, và mỗi cá nhân phải thuộc về một trong những giai cấp ấy. Nếu Marx và Engels đã đúng, thì những niềm tin của một con người bắt nguồn từ tình thế giai cấp của anh ta, và nếu như tình thế không có thay đổi thì những niềm tin ấy không thể thay đổi được - trong chừng mực ít nhất cũng liên quan đến số đông. Cho nên nhiệm vụ thích đáng của một nhà cách mạng là thay đổi tình thế “khách quan”, nghĩa là, chuẩn bị giai cấp cho nhiệm vụ lịch sử của nó trong việc lật đổ giai cấp đang thống trị.
Lenin đi xa hơn điều này. Ông đã hành động như thể không chỉ tin rằng: thật vô ích bàn cãi và lí lẽ với những kẻ bị lợi ích giai cấp ngăn ngừa việc hiểu biết cùng hành động theo những chân lí của chủ nghĩa Marx, mà còn là: bản thân quần chúng vô sản cũng quá mông muội để thấu hiểu được vai trò mà lịch sử kêu gọi họ thực hiện. Ông đã nhìn thấy việc lựa chọn giống như là giữa việc giáo dục và khuyến khích trong đạo quân không có được một “tinh thần phê phán” (có thể dùng trí tuệ đánh thức dậy, nhưng phải mất nhiều công sức tranh luận và phản bác, tương tự chuyện đã từng làm cho các trí thức bị chia rẽ và suy yếu), và việc biến họ thành một lực lượng biết vâng lời, gắn kết bằng một kỉ luật quân sự và một mạng lưới các công thức được nhắc đi nhắc lại mãi (ít nhất cũng hùng mạnh như điệp khúc yêu nước mà chế độ Nga hoàng đã sử dụng)để ngăn chặn tư duy độc lập. Khi buộc phải lựa chọn, thì thật vô trách nhiệm, nếu nhấn mạnh đến lựa chọn thứ nhất nhân danh một nguyên tắc trừu tượng nào đó như là dân chủ hay khai minh. Điều quan trọng là tạo ra một tình trạng trong đó những khả năng của con người được phát triển phù hợp với một khuôn mẫu duy lí. Người ta bị thúc đẩy bởi các quyết định phi lí tính nhiều hơn là các quyết định có lí tính. Quần chúng quá mông muội và mù quáng để được phép tiến theo hướng mà họ tự lựa chọn. Tolstoy và những người dân túy đã sai lầm sâu sắc: người nông dân giản dị không có chân lí sâu sắc, không có cách sống có giá trị để tạo ra nét riêng; anh ta và người công nhân thành thị cũng như người lính, đơn giản là những thân phận nô lệ trong điều kiện nghèo khổ và bẩn thỉu xơ xác, bị mắc vào một hệ thống xung đột tương tàn; họ chỉ có thể được giải thoát bằng cách được sắp xếp một cách không thương xót bởi các lãnh tụ có khả năng tổ chức những nô lệ được giải phóng thành một hệ thống duy lí có dự tính.
Bản thân Lênin về nhiều phương diện là một người Không tưởng khá kì cục. Ông khởi sự với niềm tin cào bằng rằng, với giáo dục và tổ chức duy lí về kinh tế, thì cuối cùng có thể làm cho bất cứ ai cũng có thể hoàn thành được bất cứ nhiệm vụ nào một cách hiệu quả. Thế nhưng việc thực hành của ông lại giống một cách lạ lùng với việc thực hành của những kẻ phi lí tính, tin rằng con người ở mọi nơi đều hoang dại, xấu xa, ngu dốt và ngỗ nghịch, nó cần phải được giữ trong kiểm soát hướng tới những đối tượng của sùng bái không phê phán. Điều này phải được thực hiện bởi một nhóm những người tổ chức sáng suốt mà chiến thuật của họ - nếu như không phải là lítưởng - dựa trên những chân lí cảm nhận được bởi những con người xuất chúng (élitists) - những người như Nietzsche, Pareto36 hay những nhà tư tưởng tuyệt đối Pháp từ Maistre37 đến Maurras38, và thực ra cả chính Marx nữa - những người đã thấu hiểu được bản chất đích thực của phát triển xã hội và dưới ánh sáng khám phá của họ, đã nhìn thấy lí thuyết tự do về tiến bộ của con người như một thứ gì đó phi thực tế, mỏng manh, đáng khinh và ngu ngốc. Dù những thô thiển và lầm lẫn của Hobbes có là gì đi nữa, thì chính là Hobbes, chứ không phải Locke, hóa ra đã đúng trong những vấn đề chủ yếu: người ta chẳng tìm kiếm cả hạnh phúc lẫn tự do, cũng như công bằng, mà trên hết và trước hết, người ta tìm kiếm an toàn. Cả Aristotle nữa cũng đúng: một số rất đông con người là nô lệ về bản chất và khi được giải phóng khỏi xiềng xích thì không có được những nguồn lực đạo đức và trí tuệ, để có thể đối mặt với viễn tượng về trách nhiệm, về lựa chọn quá rộng giữa nhiều khả năng; vì thế cho nên khi mất đi một loạt các xiềng xích này thì nhất định họ sẽ tìm kiếm những xiềng xích khác, hay lại rèn đúc cho chính mình những xiềng xích mới. Từ đó suy ra rằng nhà lập pháp cách mạng khôn ngoan, thay vì tìm cách giải phóng người ta khỏi khuôn khổ mà thiếu nó thì họ cảm thấy bị lạc lối và tuyệt vọng, sẽ nên tìm cách dựng lên một khuôn khổ của riêng mình tương ứng với những nhu cầu mới của thời đại mới, do đổi thay tự nhiên và kĩ nghệ đưa tới. Giá trị của khuôn khổ sẽ phụ thuộc vào niềm tin không tra vấn mà với niềm tin ấy thì các nét đặc trưng của khuôn khổ sẽ được chấp nhận; nếu không thế thì khuôn khổ sẽ không có đủ sức mạnh để nuôi sống và kiềm chế được những kẻ ngang ngạnh, tiềm ẩn tính chất vô chính phủ và tự hủy hoại, là những kẻ tìm kiếm cứu rỗi trongkhuôn khổ ấy. Khuôn khổ là cái hệ thống các định chế chính trị, xã hội, kinh tế và tôn giáo, mà các “huyền thoại”, các giáo điều, các lí tưởng, các phạm trù tư tưởng và ngôn ngữ, các kiểu cảm nhận, các thang bậc giá trị, các thái độ và tập quán “được xã hội tán thưởng” (được Marx gọi là “thượng tầng kiến trúc”), những thứ thể hiện những “duy lí hóa”, những “thăng hoa” và những biểu hiện có tính biểu tượng, những thứ khiến cho người ta hoạt động theo cách thức có tổ chức, ngăn ngừa hỗn loạn, thực hiện chức năng của nhà nước theo kiểu của Hobbes. Quan điểm này đã truyền cảm hứng cho chiến thuật Jacobin, tuy nó chẳng phải là học thuyết Jacobin hay cộng sản, nó không cách xa lắm với bí ẩn chủ chốt và tùy tiện không được thử qua của Maistre - cái uy quyền siêu tự nhiên mà nhờ nó và nhân danh nó các nhà cầm quyền có thể cai trị và cấm đoán các khuynh hướng ngỗ nghịch nơi các thần dân của họ, vượt lên trên mọi khuynh hướng hỏi quá nhiều câu hỏi, tra vấn quá nhiều các luật lệ đã được thiết lập. Không cho phép một thứ gí dẫu chỉ làm suy yếu đôi chút cái cảm nhận tin tưởng và an toàn, công việc của khuôn khổ là phải cung cấp cảm nhận ấy. Chỉ có như vậy (theo quan điểm này) thì nhà sáng lập xã hội tân tự do mới có thể kiểm soát được bất cứ điều gì đe dọa làm tiêu hao năng lượng con người hay làm chậm lại cái cối xay tàn nhẫn, mà chỉ duy nhất nó ngăn được người ta thôi không thực hiện hành vi tự sát điên rồ, chỉ duy nhất nó bảo hộ được ngườỉ ta khỏi tự do quá nhiều, khỏi kiềm chế quá ít, thoát khỏi cái chân không mà loài người căm ghét không kém hơn tự nhiên.
Henri Bergson (đi theo các nhà lãng mạn chủ nghĩa Đức) đã nói điều gì đó không khác mấy với điều trên, khi ông ta làm nổi bậtnhững điểm khác nhau giữa dòng chảy cuộc sống với những sức mạnh của lí trí mang tính phê phán, là thứ không thể sáng tạo hay hợp nhất, mà chỉ chia rẽ, bắt giữ, giết chết, làm tan rã. Freud cũng đóng góp vào điều này, không phải trong công việc của một thiên tài như người chữa trị bệnh và nhà lí thuyết tâm lí học vĩ đại của thời đại ngày nay, mà như người khởi xướng, dù có ngây thơ vô tội đến đâu, cho việc áp dụng sai các phương pháp tâm lí học mang tính duy lí và xã hội, bởi những con người lú lẫn có thiện chí, bởi bọn lang băm và những kẻ tiên tri đủ mọi màu sắc. Bằng cách đưa ra những phiên bản thịnh hành bị thổi phồng cho quan điểm khẳng định rằng các lí do đích thực của những niềm tin ở con người rất thường xuyên lại khác với những gì mà họ tự nghĩ mình là như thế, thường tạo ra bởi các sự cố và những quá trình mà họ vừa không ý thức được vừa chẳng lo lắng chút nào đến chuyện ý thức chúng, những nhà tư tưởng nổi tiếng ấy, dù không có chủ tâm nào đi nữa, đã làm cho các cơ sở lí tính bị mất tín nhiệm, mà chính từ những cơ sở lí tính ấy các học thuyết của bản thân họ đã tạo ra sức mạnh logic của chúng. Vì chỉ còn một bước ngắn từ quan điểm ấy là đi tới quan điểm cho rằng những gì làm cho người ta hài lòng không phải là chuyện khám phá ra những lời giải đáp cho các câu hỏi đã làm họ phải bối rối, như họ vẫn tưởng là thế, mà lại là một quá trình nào đó, tự nhiên hay nhân tạo, nhờ đó khiến cho các vấn đề đều bị tiêu tan. Chúng bị thủ tiêu vì những “nguồn gốc” tâm lí của chúng đã đổi hướng và làm cho chúng khô cạn, để lại phía sau chỉ còn những câu hỏi ít khó khăn hơn, những lời giải đáp cho chứng không đòi hỏi những nguồn lực vượt quá sức chịu đựng.
Cái con đường tắt ấy với những khó khăn rắc rối vốn nằm trong tư tưởng của phe hữu chống-lí-tính theo truyền thống, lại có ảnh hưởng tới phe tả, chuyện này quả thực là mới mẻ. Chính đổi thay này trong thái độ đối với chức năng và giá trị của trí tuệ, có lẽ là chỉ dấu tốt nhất cho cái khoảng cách to lớn phân chia thế kỉ 20 với thế kỉ 19.
Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc
