Những luận cương liên bang (Phần 26)
VII. NHỮNG NHẬN ĐỊNH PHỔ QUÁT
1. Bản dân quyền
HAMILTON
Trong những bài nhận xét và phê bình về dự thảo Hiến pháp mà tôi đã viết, tôi đã gắng trả lời phần lớn những lý lẽ chỉ trích bản dự thảo Hiến pháp. Tuy vậy, vẫn còn một số lý lẽ mà chúng ta không thể xếp vào một mục nhất định nào hoặc chúng ta quên chưa nói tới. Bây giờ, tôi xin bàn tới những lý lẽ còn lại đó, nhưng vì cuộc thảo luận này đã kéo dài quá nhiều nên tôi sẽ thu gọn tất cả các nhận xét vào trong một bài mà thôi.
Những lý lẽ chỉ trích đáng chú ý nhất là dự thảo Hiến pháp của Hội nghị lập hiến không gồm một bản dân quyền. Để trả lời quan điểm này chúng ta đã từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần là Hiến pháp nhiều tiểu bang cũng không gồm một một bản bân quyền. Tôi xin nói thêm là chính bản Hiến pháp của tiểu bang New York của chúng ta cũng không có một bản dân quyền. Thế mà những người chỉ trích dự thảo Hiến pháp liên bang ở tiểu bang này, trong khi tuyên bố là họ vô cùng ngưỡng mộ bản Hiến pháp của tiểu bang chúng ta, lại là những người lớn tiếng nhất đòi hỏi dự thảo Hiến pháp phải gồm có một bản dân quyền. Để tự bào chữa, họ hỏi rằng: Thứ nhất, tuy bản Hiến pháp của tiểu bang New York không gồm có một bản dân quyền nhưng các điều khoản của Hiến pháp có bao gồm nhiều đoạn nói tới những đặc quyền của người dân, và như vậy tức là bản Hiến pháp New York đã chứa trong lòng nó một bản dân quyền; Thứ hai, bản Hiến pháp New York đã hoàn toàn phỏng theo bản luật pháp của nước Anh và bản này công nhận một số quyền tự do của công dân tuy những quyền này không có ghi trong Hiến pháp đó.
Để trả lời lý lẽ thứ nhất, tôi xin nói là dự thảo Hiến pháp liên bang – cũng như Hiến pháp New York – có chứa đựng nhiều khoản trù liệu về dân quyền.
Không kể những điều khoản nói về cơ cấu chính phủ, chúng ta tìm thấy những khoản sau đây:
Điều 1, khoản 3, đoạn 7 nói rằng: “Bản án trong những vụ xét xử về tội lạm dụng công quyền sẽ không thể quyết định việc cách chức, truất quyền giữ một chức vụ danh dự, tín nhiệm hay lợi lộc trong chính phủ Hợp chúng quốc; nhưng người bị kết tội, tuy vậy, vẫn có thể bị cáo tội, bị xét xử, kết tội và bị trừng trị theo thường luật”.
Điều 1, khoản 2, đoạn 9, nói rằng: “Đặc quyền hưởng sắc lệnh “habeas corpus” sẽ không thể bị truất, ngoại trừ trường hợp phản loạn hoặc xâm lăng khi nền an ninh công cộng bắt buộc phải hành động như vậy”.
Đoạn 3, nói rằng: “Không một đạo luật nào tổn hại tới quyền tự do của công dân, không một đạo luật hồi tố nào sẽ có thể được ban hành”.
Đoạn 7 nói rằng: “Không một tước vị nào sẽ do Hợp chúng quốc phong tặng và không một người nào của Hợp chúng quốc đảm nhận một chức vụ có lợi lộc hoặc có tín nhiệm của chính phủ nếu không có sự thỏa thuận của Quốc hội, được nhận bất cứ một tặng vật, một lượng vật, một lương bổng, một chức vụ hoặc một tước vị nào của bất cứ một vị hoàng đế, vương chúa hoặc một chính phủ ngoại quốc nào”.
Điều 3, khoản 2, đoạn 3, nói rằng: “Mọi trọng tội, trừ trường hợp lạm dụng công quyền, sẽ được xét xử bằng thể thức có bồi thẩm đoàn và những vụ án đó sẽ được xét xử tại tiểu bang mà tội đã xảy ra; còn khi tội xảy ra không thuộc bất cứ một tiểu bang nào, án sẽ được xử tại một nơi hoặc những nơi mà Quốc hội sẽ định đoạt bằng một đạo luật”.
Khoản 3 nói rằng: “Sẽ bị coi như là phản bội đối với Hợp chúng quốc mọi hành vi tuyên chiến với Hợp chúng quốc, hoặc mọi hành vi liên minh hay uý lạo kẻ thù của Hợp chúng quốc. Không một người nào có thể bị kết án phản bội nếu không phải là do sự tố cáo của hai chứng nhân chứng kiến hành vi công khai đó, hay do chính đương sự thú nhận trong một phiên thẩm vấn công khai”.
Đoạn 3 của khoản trên nói tiếp : “Quốc hội sẽ có quyền xác định hình phạt thuộc về tội phản bội, nhưng không một sự phản quyết nào về tội trạng ấy đưa tới hình phạt hoặc tịch thu tài sản, trừ khi tội nhân còn sống”.
Chúng ta có thể hỏi rằng những khoản đó, nếu cộng lại, lại không quan trọng ngang với tất cả những khoản tương tự mà chúng ta có thể tìm thấy trong Hiến pháp của tiểu bang chúng ta hay sao? Sự thành lập sắc lệnh habeas corpus, sự cấm đoán ban hành những đạo luật hồi tố và những tước vị, đó là những khoản mà chúng ta nhận thấy không ghi trong Hiến pháp tiểu bang của chúng ta và những khoản đó là những khoản bảo đảm tự do và chính thể cộng hòa vững chắc hơn những khoản khác trong Hiến pháp tiểu bang chúng ta. Sự định đoạt một hành động là một trọng tội sau khi hành động đó đã xảy ra, hay nói một cách khác, trừng phạt một người vì những hành động mà khi họ làm thì không coi là tội, và sau đó mới cho là tội, hay những sự bắt giam độc đoán, đó đều là những điều mà từ xưa tới nay các chính thể chuyên chế thích dùng. Những nhận xét của ông Blackstone về vấn đề này đáng để cho chúng ta nhắc lại:
“Làm đau khổ đời sống của một người hay bạo động, tịch thu tài sản của người đó mà không cần buộc tội hoặc xét xử, đó là những hành động chuyên chế tàn bạo và trắng trợn, đáng để báo động cho toàn quốc nhận thức về sự chuyên chế đó. Nhưng bắt giữ một người một cách bí mật và vội vàng đưa người đó vào nhà tù, nơi mà sự đau khổ của người này sẽ không được ai biết tới hoặc bị quên đi, là những hành động ít công khai hơn, ít người biết tới hơn, và vì vậy chính là những hành động nguy hiểm hơn của những chính phủ chuyên chế”.
Để chống lại hiểm họa đó, ông Blackstone, trong các bài viết của mình, đã luôn luôn đòi hỏi ban hành sắc lệnh habeas corpus, và trong một bài, ông đã từng gọi sắc lệnh đó là “một thành trì của Hiến pháp Anh”.
Còn về vấn đề cấm đoán ban hành những tước vị thì chúng ta không cần phải giải thích thêm nữa. Khoản này có thể gọi là một khoản căn bản của một chính thể cộng hòa, bởi vì còn duy trì được sự cấm đoán này thì tức là vẫn chưa phải lo ngại rằng chính phủ không phải là chính phủ của nhân dân.
Còn về quan điểm thứ hai của những người yêu cầu dự thảo Hiến pháp phải có một bản dân quyền, cho rằng bản Hiến pháp New York phỏng theo luật pháp Anh, tôi xin trả lời rằng nếu bản dân quyền cần phải được xây dựng giống như một bản thường luật riêng biệt, thì bản đó “có thể bị thay đổi bởi Quốc hội lập pháp khi cần”. Như vậy tức là, bản luật pháp đó có thể bị bãi bỏ bằng một thủ tục rất giản dị của quyền lập pháp và không thể có một hiệu lực rộng lớn như hiệu lực của Hiến pháp. Còn nếu cần phải ghi bản dân quyền vào Hiến pháp thì như vậy chỉ có nghĩa là công nhận một bản luật pháp cũ như của Anh mà thôi và bản dân quyền đó sẽ trái ngược với tinh thần của bản Hiến pháp mà chúng ta hiện đang muốn có vì mục đích của bản Hiến pháp mới là hạn chế quyền lực của chính phủ, chứ không phải là một bản danh sách dân quyền.
Chúng ta đã có nhiều dịp nhận xét rằng những bản dân quyền chỉ là những hợp đồng giữa các vị vua chúa và dân chúng, hạn chế quyền lực của vua chúa để bảo vệ đặc quyền của thần dân tức là kể rõ những quyền mà thần dân không giao phó cho vua chúa. Chẳng hạn, bản Đại hiến chương “Magna Charta” là một bản dân quyền mà các bá tước đã giành được từ vua John (Jean) bằng gươm giáo. Chẳng hạn, bản “Petition of Rights” (Yêu sách về quyền) cũng là một bản dân quyền mà vua Charles Đệ Nhất đã phải thỏa thuận ký kết. Hay chẳng hạn như bản “Tuyên Ngôn Dân Quyền” mà Nguyên lão Nghị viện và Dân biểu Nghị viện đã đệ lên Hoàng tử Prince of Orange năm 1688, và sau đó đã được ban hành với hình thức một đạo luật của Nghị viện gọi là Đạo luật Dân quyền. Như vậy, những bản dân quyền, theo như ý nghĩa nguyên khởi của nó, không thể được coi là những bản Hiến pháp, thành lập nhờ ở quyền lực của nhân dân và quyền lực đó sẽ được đem áp dụng bởi đại diện của nhân dân, tức là bởi công bộc của nhân dân. Trong bản Hiến pháp, nhân dân không bỏ mất một phần quyền lực nào của mình và vẫn giữ được hết các quyền lực của nhân dân, vậy thì tại sao lại cần phải hạn chế quyền lực đó làm gì? Ngay trong đoạn đầu của Hiến pháp đã có câu: “Chúng tôi, nhân dân của Liên bang Hợp chúng quốc mục đích đảm bảo những lợi ích của sự tự do cho chúng tôi và cho hậu thế của chúng tôi, quyết định và thiết lập Hiến pháp này cho Hợp chúng quốc châu Mỹ”. Câu này công nhận một cách rõ ràng những quyền tự do của nhân dân gấp trăm vạn lần những câu văn bóng bảy trong các bản dân quyền của một vài tiểu bang mà đáng lẽ chỉ nên đem sử dụng trong các cuốn khái luận về đạo lý hơn là trong một bản Hiến pháp về chính quyền.
Một bản danh sách dân quyền, nếu cần phải kê khai tỉ mỉ, sẽ không thể đem ghi được vào trong một bản Hiến pháp như bản Hiến pháp của chúng ta vì bản Hiến pháp của chúng ta chỉ có mục đích quy định những quyền lực chính trị tổng quát của quốc gia chứ không phải là để quy định từng loại quyền lợi cá nhân và tư nhân. Như vậy, nếu chúng ta công nhận những người chỉ trích bản dự thảo Hiến pháp là không kê khai rõ ràng những dân quyền là có lý thì chúng ta cần phải chỉ trích ngay bản Hiến pháp tiểu bang New York của chúng ta, bởi vì cả hai bản Hiến pháp đều chứa đựng những khoản như nhau về dân quyền.
Bây giờ, tôi xin nhấn mạnh hơn nữa và nói rằng thêm bản dân quyền vào trong bản Hiến pháp là một điều thừa, vô ích và còn là một điều nguy hiểm nữa. Một bản dân quyền dù cặn kẽ thế nào cũng vẫn không kê khai đủ các quyền tự do của dân chúng, và vì vậy chính quyền có thể đòi hỏi nhiều quyền mà thật sự chúng ta không hề giao phó cho chính quyền. Tại sao chúng ta lại cần phải kê khai tất cả những quyền mà chúng ta không muốn giao phó cho chính phủ? Tại sao, chẳng hạn, chúng ta lại cần phải tuyên bố là quyền tự do báo chí sẽ không bị hạn chế trong khi chúng ta không giao phó cho chính phủ quyền lực hạn chế báo chí?
Như vậy, nếu trong chính phủ có những người muốn cưỡng đoạt quyền hành, họ sẽ có dịp để dựa trên khoản này trong bản dân quyền mà đòi hỏi quyền lực hạn chế báo chí. Họ có thể biện luận rằng chính quyền không có quyền hạn chế báo chí hàm ý rằng chính quyền phải có quyền quy định những luật lệ để duy trì sự tự do báo chí.
Về vấn đề tự do báo chí, tôi xin đưa ra một vài nhận xét. Trước hết, tôi nhận thấy Hiến pháp tiểu bang New York không có khoản nào nói tới quyền tự do báo chí. Thứ hai, trong Hiến pháp của những tiểu bang có nói tới quyền tự do báo chí, không có điều gì thật là đặc biệt. Chúng ta có thể tự hỏi câu tuyên bố “quyền tự do báo chí sẽ được bảo vệ một cách bất khả xâm phạm”, có ý nghĩa gì? Và tự do báo chí là gì? Ai là người có thể định nghĩa tự do báo chí một cách thật rộng rãi, minh bạch khiến cho không có một cách nào để xâm phạm tới phạm vi quyền tự do? Vì vậy, tôi cho là những câu tuyên bố về quyền tự do báo chí đều thiếu thiết phục. Tôi chủ trương là dù có những câu rất hay trong Hiến pháp tuyên bố về quyền tự do báo chí, quyền tự do báo chí sẽ được bảo vệ hay không vẫn là còn tùy ở dư luận công chúng, ở tinh thần của nhân dân và của chính phủ. Chỉ có dựa vào điều này chúng ta mới có thể xây dựng một cách tất cả các quyền tự do của chúng ta vững chãi.
Cuối cùng, còn một điểm nữa mà chúng ta cần phải bàn tới trước khi kết luận là dù mỗi người tuyên bố một lối, chúng ta vận phải công nhận là bản Hiến pháp, do ý nghĩa và công dụng của nó, chính là một bản dân quyền. Tất cả các bản dân quyền của Anh sau này đã kết thành bản Hiến pháp của Anh và ngược lại, các bản Hiến pháp của mỗi tiểu bang chính là những bản dân quyền của tiểu bang đó. Bằng Hiến pháp của liên bang Hợp chúng quốc đã được dự thảo một cách thận trọng để bảo vệ nền an ninh của dân chúng và sự thật trong đó đã biểu lộ rõ ràng hơn cả các bản Hiến pháp của các tiểu bang. Mục đích của một bản dân quyền có phải là để định nghĩa rõ ràng những đặc quyền của cá nhân và tư nhân hay không? Nếu vậy thì trong dự thảo Hiến pháp liên bang cũng đã có ghi nhiều khoản về các đặc quyền cá nhân rồi. Chúng ta không thể chối cãi được rằng dự thảo Hiến pháp không ghi những điều đó. Chúng ta chỉ có thể nói rằng dự thảo đã không ghi những điều đó tỉ mỉ hơn, cặn kẽ hơn, nhưng chúng ta phải nhận là dự thảo Hiến pháp có ghi những điều đó.
Nguồn: Trích từ Ralph H.Gabriel (1954). Hamilton, Madison and Jay: On the Constitution. Đại học Yale, Hoa Kỳ. Được dịch và ấn hành bởi Việt Nam Khảo dịch xã (có trụ sở ở 61 Lê Văn Duyệt, Sài gòn) vào các năm 1959 và 1966 ở miền Nam Việt Nam, dưới tên gọi là “Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ”.
