Nhà nước phúc lợi và sự xói mòn trách nhiệm (Phần 3/3)

Nhà nước phúc lợi và sự xói mòn trách nhiệm (Phần 3/3)

(Tiếp theo Phần 2)

Hướng tới một hợp đồng phúc lợi mới?

Những người Mỹ vẫn tin rằng các nước Bắc Âu tránh được rủi ro đạo đức nên tự mình tìm cách đọc báo cáo do Chính phủ Xã hội Dân chủ Đan Mạch công bố vào năm 2013 (có lẽ với sự trợ giúp của Google Dịch). Báo cáo đưa ra kết luận rằng, có tới 400.000 công dân Đan Mạch vào thời điểm đó hầu như không có động lực kinh tế tham gia vào thị trường lao động. Những cá nhân này bị mất 80% hoặc nhiều hơn thu nhập khi bước vào thị trường lao động, vì họ bị mất trợ cấp và phải đóng thuế. Thông qua những cải cách về thuế và phúc lợi, chính phủ Xã hội Dân chủ trước đây hy vọng sẽ làm giảm nhóm này xuống còn 250.000 người. Thậm chí đó vẫn là một tỷ lệ lớn dân số ở độ tuổi lao động, vốn dĩ dưới 3 triệu người.38

Tháng 6 năm 2015, chính phủ cánh tả Đan Mạch đã thua cuộc bầu cử vào tay liên minh cánh hữu, vốn có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải cách phúc lợi. Thật thú vị, những đảng viên đảng Dân chủ xã hội đã gia tăng được lực lượng ủng hộ trong cuộc bầu cử, giành lại vị trí là đảng lớn nhất của đất nước. Nhưng quyền lực bị chuyển dịch vì các đảng liên minh với Đảng Dân chủ Xã hội là những bên đã chỉ trích tầm nhìn về nhà nước cạnh tranh và đã mất rất nhiều phiếu trong cuộc bầu cử. Do vậy, có vẻ như cử tri Đan Mạch ủng hộ tầm nhìn về một hệ thống dựa trên tự lực nhiều hơn và dựa vào phúc lợi ít hơn. Sự thay đổi thái độ chính trị này xảy ra khi sự phụ thuộc vào phúc lợi xã hội đã tăng lên, đặc biệt trong số những người có nguồn gốc ngoại kiều.

Các nhà nước phúc lợi khác ở Bắc Âu đã đi theo một con đường tương tự như của Đan Mạch và Thụy Điển. Trong một thời gian dài, Hà Lan có một hệ thống phúc lợi thuộc loại hào phóng nhất trên thế giới. Vào đầu những năm 1980, Hà Lan xếp hạng là nước có chi tiêu cao nhất cho chính sách phúc lợi, ngang bằng với hệ thống công cộng nổi tiếng của Thụy Điển (cùng thời điểm đó). Tuy nhiên, theo thời gian, Hà Lan đã thu hẹp hệ thống phúc lợi của mình, giảm phạm vi chi tiêu công, tư nhân hoá an sinh xã hội, và đưa ra các cơ chế thị trường nhanh nhạy trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và bảo hiểm xã hội39. Mặc dù về mặt địa lý Hà Lan không phải một phần của Bắc Âu, nhưng Hà Lan có các đặc điểm văn hoá, kinh tế và chính trị rất giống với các nước láng giềng phía Bắc. Một sự khác biệt là Hà Lan đã sớm chuyển từ một hệ thống phúc lợi rộng khắp sang một mô hình giới hạn hơn. Mục tiêu cung cấp mạng lưới an sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục cho người dân thuộc nhóm yếu thế vẫn còn. Hà Lan đã tìm ra một khế ước xã hội mới, thông qua việc thu hẹp sự hào phóng của hệ thống và tạo ra các thị trường bảo hiểm kết hợp bảo hiểm toàn dân với cạnh tranh và trách nhiệm cá nhân. Có thể nói rằng khế ước xã hội mới này có tính ổn định lâu dài hơn vì nó khuyến khích trách nhiệm cá nhân nhiều hơn hệ thống trước đây.

Đức và Phần Lan chưa bao giờ đưa ra các chế độ phúc lợi nhiều tham vọng như Đan Mạch và Thụy Điển, nhưng họ cũng đã có những chuyển hướng tương tự do những tác động dài hạn của các chuẩn mực về hành vi công cộng đã trở nên rõ ràng. Ngay cả Vương quốc Anh, với mô hình phúc lợi vừa phải, đang trải qua một cuộc tranh luận rộng rãi về nhu cầu củng cố lại các chuẩn mực. Ví dụ, vào đầu năm 2014, chương trình Benefit Street được phát sóng và chạy trong 5 tập phim. Bộ phim ghi lại cuộc sống của cư dân phố James Turner ở Birmingham, nơi có 90% cư dân yêu cầu trợ cấp. Benefit Street đã tạo ra một cuộc tranh luận sôi nổi, rộng khắp về hệ thống phúc lợi của Anh, các đòi hỏi trợ cấp và sự thiếu động lực tìm kiếm việc làm. Các xu hướng chính trị gần đây cho thấy con đường cải cách phúc lợi nhận được nhiều sự ủng hộ từ công chúng40.

Sự sụp đổ các chuẩn mực ở các nhà nước phúc lợi giàu có về dầu mỏ

Có thể có trường hợp ngoại lệ đối với sự hình thành khế ước phúc lợi mới ở các nhà nước phúc lợi Bắc Âu: Na Uy. Nhờ vào nguồn dầu mỏ giàu có ở Đại Tây Dương, đất nước miền núi này đã giữ được lý tưởng dân chủ xã hội khi theo đuổi các chương trình công cộng rất hào phóng. Tuy nhiên, như Roosevelt rất tao nhã nói rằng, sự phụ thuộc phúc lợi không chỉ là một vấn đề kinh tế mà còn là một vấn đề con người. Chắc chắn các quỹ đầu tư dầu mỏ đủ giúp Na Uy có khả năng chi trả cho phần lớn các khoản trợ cấp công cộng. Câu hỏi liệu nhà nước có đủ khả năng chi trả cho tổn thương đối với con người do các chính sách tương tự gây ra chắc chắn mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Một hậu quả của các chính sách phúc lợi hào phóng ở Na Uy là sự xuống cấp trong đạo đức nghề nghiệp. Bộ phim truyền hình Lilyhammer, với sự tham gia của diễn viên trong series phim Sopranos, Steven Van Zandt, một người Mỹ đến Na Uy, thường xuyên chế nhạo việc thiếu kỷ luật lao động trong quốc gia này.

Hiện tượng đó rõ ràng trở thành văn hoá phổ biến. Vào năm 2014, tờ Financial Times đưa tin: "Văn phòng thống kê của Na Uy cho biết nhiều người đã bắt đầu gọi thứ Sáu là ‘fridag’- tức là 'ngày nghỉ tự do' theo tiếng Na Uy. Công ty đường sắt của tiểu bang cho biết các chuyến tàu điện ngầm phục vụ cho thủ đô hoạt động ít hơn vào thứ sáu, và nhà khai thác đường cao tốc nói rằng hoạt động giao thông ngày càng tĩnh lặng hơn vào thứ sáu và thứ hai”.41 Không chỉ người lớn giảm tập trung làm việc. Thanh niên - sinh ra và lớn lên trong một hệ thống với ít phần thưởng cho công việc - còn đi xa hơn. Trong một cuộc khảo sát gần đây, ba trong số bốn nhà tuyển dụng người Na Uy trả lời rằng thanh niên Thụy Điển đang làm việc ở Na Uy có năng lực làm việc tốt hơn thanh niên Na Uy. Trong số những người được hỏi, chỉ có 2% tin rằng những người trẻ Na Uy từ 16 đến 24 tuổi có năng lực làm việc cao. Stein André Haugerund, chủ tịch công ty tuyển dụng Proffice - đơn vị tiến hành cuộc khảo sát - đã lập luận rằng mô hình phúc lợi của Na Uy đã tạo ra tình huống hạn chế động lực làm các công việc vất vả, và điều đó sẽ ảnh hưởng đến hành vi của những người trẻ42.

Những người còn nghi ngờ về việc các hệ thống phúc lợi hào phóng có thể ảnh hưởng đến các chuẩn mực lao động nên suy nghĩ kỹ về trường hợp của Na Uy. Rất khó để bỏ qua thực tế là người Na Uy, chỉ cách đây vài thế hệ, đã có đạo đức nghề nghiệp tốt nhất trên thế giới. Nếu không có sự tin tưởng cao, sự gắn kết xã hội và nền văn hoá chịu trách nhiệm cá nhân thì Na Uy sẽ không bao giờ thành công đến như vậy. Sự giàu có về dầu mỏ của đất nước đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn. Tuy nhiên, nó là một con dao hai lưỡi kể từ khi doanh thu dầu lớn đến mức nhà nước khó có thể hạn chế sự hào phóng của các chương trình công cộng và trợ cấp xã hội. Theo quan điểm cấp tiến, ai đó có thể lập luận rằng tình hình của Na Uy - nghĩa là, một nhà nước phúc lợi rất hào phóng nhờ tài nguyên thiên nhiên giàu có - rất đáng ngưỡng mộ. Tuy nhiên, giống như ở các nước Ả-rập giàu có về dầu mỏ, các chương trình phúc lợi không chỉ đơn giản tạo ra phúc lợi xã hội; mà như một hệ quả không mong đợi, hệ thống đó đã dung dưỡng sự tồn tại của một lớp người nghèo trong xã hội.

Một lớp người nghèo trong xã hội

Nhìn bên ngoài, dường như Na Uy có tỷ lệ thất nghiệp thấp. Tuy nhiên, trong thực tế, phần lớn thất nghiệp bị ẩn đi trong số liệu thống kê về những người về hưu sớm. Điều này đúng với những người Na Uy bản địa nói chung và trong số những người nhập cư nói riêng. Một nghiên cứu xem xét các cá nhân trong độ tuổi 30-55 đã được hưởng trợ cấp tàn tật ở một số vùng trong khoảng thời gian từ 1992 đến 2003. Nhóm này bao gồm 11% nam giới và 16% phụ nữ có nguồn gốc Na Uy. Đối với những người sinh ra ở Trung Đông và Bắc Phi, con số này thậm chí còn cao hơn: 25% là nam giới và 24% là phụ nữ.43

Trợ cấp người khuyết tật tất nhiên nhằm vào những người thực sự tàn tật. Do đó, có vẻ khó hiểu vì sao có một phần khá lớn dân số ở một trong những nước mà người dân có sức khỏe thuộc loại tốt nhất trên thế giới lại được hưởng trợ cấp này. Một cách giải thích là phúc lợi này được sử dụng để giấu mức thất nghiệp thực sự - nếu một người thất nghiệp được nhận trợ cấp tàn tật, người đó không còn được coi là một phần của lực lượng lao động và do đó biến mất khỏi số liệu thống kê thất nghiệp. Một cách giải thích khác là nhiều người lạm dụng hệ thống phúc lợi. Được hưởng trợ cấp tàn tật thường mang lại nhiều lợi ích hơn so với trợ cấp thất nghiệp. Vì vậy, nhiều người thất nghiệp, mặc dù không đau yếu đến nỗi không thể làm việc lại phấn đấu để được trợ cấp tàn tật. Một số thậm chí kết hợp với công việc chợ đen, và điều này dĩ nhiên cho thấy rằng họ thực sự không bị bệnh tật gì cả.

Các nước Bắc Âu khét tiếng là tệ hại đối với việc chấp nhận người nước ngoài hòa nhập vào thị trường lao động của họ. Thuế cao, phúc lợi công cộng hào phóng và thị trường lao động cứng nhắc tất cả kết hợp lại khiến cho ngay cả những nhóm người tị nạn có trình độ học vấn cao cũng gặp nhiều khó khăn để được gia nhập lực lượng lao động. Sự phụ thuộc phúc lợi và sự suy thoái chuẩn mực nói riêng ảnh hưởng đến người nhập cư và con cái của họ. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng sự phụ thuộc phúc lợi không chỉ là vấn đề đối với các nhóm thiểu số. Các dân tộc Bắc Âu cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ điển hình được đưa ra trong cuốn The Confessions of a ‘Welfare Freeloader’ [Lời thú tội của một "kẻ ăn bám phúc lợi”], được đăng trên tờ nhật báo Dagbladet của Na Uy. Có một thanh niên đã viết về cách anh ta đã nhận được hỗ trợ phúc lợi trong ba năm qua, mặc dù anh ta khỏe mạnh và đang trong độ tuổi đẹp nhất cuộc đời. Ở khía cạnh này, anh ta không cô đơn:

Tôi biết nhiều người – những người tài năng, có năng khiếu - cũng chính là những người không chịu làm việc. Họ cũng chẳng làm gì khác, đấy là nhìn từ góc độ xã hội. Không làm nghiên cứu, không có kế hoạch rõ ràng cho tương lai và cũng chẳng có kế hoạch nghiêm túc nào để trở nên giàu có theo bất cứ cách thức nào. "Tham gia" hoặc "giúp đỡ" là mối bận tâm ít nhất trong nhóm này, và hầu như họ không có động lực gì để thảo luận về chúng. Cảm giác về trách nhiệm khi nói đến một thực thể trừu tượng như "xã hội" là thấp” 44.

Bài báo đã gây ra một cuộc tranh luận toàn quốc về sự cần thiết phải điều chỉnh sự hào phóng của nhà nước phúc lợi ngay cả ở đất nước giàu có dầu mỏ là Na Uy, vì nó đã chỉ ra rõ ràng rằng nhà nước phúc lợi đang phá hoại mục tiêu cốt lõi của nó là để chống lại đói nghèo - bằng cách vô tình tạo ra một tầng lớp người nghèo của xã hội.

Liệu có cái gọi là quá nhiều phúc lợi?

Một câu hỏi chính trị trọng tâm là, liệu có thể có cái gọi là quá nhiều phúc lợi không? Liệu có khả năng trong một số hoàn cảnh cá nhân sẽ tốt hơn khi nhận được trợ cấp công cộng ít hơn hào phóng? Rất khó trả lời câu hỏi đó bởi vì rất khó để chứng minh một chính sách nhất định ảnh hưởng đến con người như thế nào ở mức cá nhân hoặc gia đình. Gordon B. Dahl, Andreas Ravndal Kostøl, và Magne Mogstad sử dụng một phương pháp khéo léo để đưa ra câu trả lời dứt khoát. Trong khoa học xã hội, rất khó để chứng minh rằng một thứ thực sự gây ra các thứ khác. Cách tốt nhất để tách mối quan hệ nhân quả ra khỏi sự tương quan là dùng cái gọi là "thí nghiệm tự nhiên".

Dahl, Kostøl và Mogstad viết: "Một số nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu đã lập luận rằng có tồn tại mối quan hệ nhân quả, tạo ra một nền văn hoá trong đó việc sử dụng phúc lợi củng cố chính nó thông qua gia đình. Những người khác cho rằng các yếu tố quyết định sự nghèo đói hoặc sức khoẻ kém có mối tương quan qua các thế hệ theo cách nào đó mà không liên quan đến văn hoá phúc lợi". Những tuyên bố này rất khó kiểm tra thực nghiệm vì nhiều yếu tố có thể giải thích sự liên quan giữa hành vi của đứa trẻ và xu hướng phụ thuộc của cha mẹ vào phúc lợi. Tuy nhiên, các tác giả tìm thấy một thí nghiệm tự nhiên làm cho nó có thể cô lập được sự tác động của sự hào phóng phúc lợi. Trong hệ thống phúc lợi của Na Uy, các thẩm phán đôi khi được chỉ định để xem xét các yêu cầu bảo hiểm tàn tật mà ban đầu đã bị từ chối. Một số thẩm phán phúc thẩm khoan dung hơn sẽ chấp nhận trao các quyền lợi. Từ góc độ của người yêu cầu bảo hiểm, việc được chỉ định giải quyết bởi một thẩm phán nghiêm khắc hay khoan dung là một sự kiện ngẫu nhiên. Do đó, các nhà nghiên cứu có thể so sánh những người được một thẩm phán khoan dung cấp bảo hiểm tàn tật với những người bị một thẩm phán nghiêm khắc từ chối. Kết luận là rõ ràng. Các tác giả chỉ ra:

Có bằng chứng rõ ràng về mối liên hệ nhân quả giữa các thế hệ: khi cha mẹ được phép nhận (bảo hiểm tàn tật) ở giai đoạn kháng cáo, sự phụ thuộc [vào chương trình phúc lợi] của người con đã trưởng thành trong 5 năm tiếp theo tăng 6 điểm phần trăm. Hiệu ứng này tăng theo thời gian, lên 12 điểm phần trăm sau 10 năm. Mặc dù những phát hiện này rất cụ thể đối với bối cảnh nghiên cứu của chúng ta, nhưng chúng cho thấy rằng cải cách phúc lợi có thể có những tác động lâu dài đối với sự phụ thuộc vào chương trình phúc lợi, vì bất cứ tác động đầu tiên nào đối với thế hệ hiện tại cũng có thể được củng cố bằng cách thay đổi hành vi phụ thuộc của con cái họ 45

Như vậy, chúng ta có thể giải quyết cuộc tranh luận chính trị về phụ thuộc phúc lợi bằng cách xem xét trạng thái phúc lợi hào phóng nhất ở các nước phát triển. Kết luận rõ ràng: phúc lợi quá hào phóng thực sự có thể tạo ra một cái bẫy đói nghèo cho các gia đình, tạo ra một nhóm bên lề xã hội kế thừa từ cha mẹ sang con cái.

Một cách để thoát nghèo hay lâm vào cảnh đói nghèo?

Theo như Robert Fogel, một nhà kinh tế đoạt giải Nobel, nhiều nguồn gốc truyền thống dẫn đến nghèo đói đã được loại bỏ bớt trong các xã hội hiện đại. Ở thế hệ trước, những người sinh ra trong các gia đình nghèo khổ thường đói, có thể không có nhà, không được học hành, và thậm chí còn thiếu tiền để mua quần áo đàng hoàng khi đi phỏng vấn việc làm. Đó là tất cả những trở ngại cho những cá nhân đang cố gắng tạo ra cuộc sống tốt đẹp và có thể tự túc. Ngày nay, nếu không phải là ở tất cả các xã hội hiện đại, người dân bị thiệt thòi có thể dựa vào các chương trình công cộng khác nhau để được đáp ứng những nhu cầu cơ bản như nhà ở và thực phẩm. Giáo dục cơ bản là miễn phí, và học bổng có sẵn để cấp bằng cao hơn. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã tạo ra một hệ thống khiến chúng ta khó xác định nếu chỉ nhìn từ xa rằng liệu một chiếc áo được làm thủ công bởi một thợ may Ý đắt tiền hay được mua với giá rẻ tại các kệ của H & M hoặc Zara. Nhưng điều đó không có nghĩa là những trở ngại thoát nghèo đã biến mất. Ngày nay, những người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó vẫn ở lại đó, và con cái họ tiếp tục bị gạt ra bên lề xã hội.

Fogel cho rằng ở một mức độ nào đó sự nghèo đói tồn tại trong xã hội hiện đại vì sự phân bố không đều các "nguồn lực tinh thần" như lòng tự trọng, ý thức kỷ luật, và ý thức cộng đồng46. Các tổ chức phúc lợi cơ bản có thể giúp giảm bớt nghèo đói trong việc cung cấp giáo dục cho tất cả. Vì vậy, họ có thể cung cấp các phúc lợi khác nhau cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, tinh thần đói nghèo mà Fogel chỉ ra có thể trở nên trầm trọng hơn khi thay vì những cá nhân có thể tự nỗ lực thì lại trở nên phụ thuộc vào hỗ trợ công cộng. Đó là những gì Ronald Reagan đã đề cập khi ông nói rằng "hệ quả tệ nhất của phúc lợi là sự chiếm đoạt vai trò của nhà cung cấp", đồng thời chỉ ra "các chương trình của chính phủ đã làm đứt sợi dây liên kết các gia đình nghèo với nhau” như thế nào.

Reagan và Roosevelt đều đúng

Tóm lại, cả Roosevelt và Reagan đều có lý do chính đáng để lo sợ về tình trạng xã hội và hạnh phúc của con người có thể vô tình bị tổn hại bởi sự phụ thuộc vào phúc lợi. Mặc dù, ban đầu các nhà nước phúc lợi Bắc Âu dường như tránh được vấn đề rủi ro đạo đức, nhưng ngày nay chúng ta biết rằng đây là điều không thể tránh được trong thời gian tới. Sự xuống cấp trong chuẩn mực xã hội do điều chỉnh hành vi theo các chế độ phúc lợi hào phóng là một hiện tượng có thể quan sát được, không chỉ ở Bắc Âu. Điều duy nhất mà Roosevelt không lường trước được là những chuẩn mực thay đổi một cách từ từ. Ngay cả các nhà nước phúc lợi ở Bắc Âu - được thành lập trong các xã hội có đạo đức nghề nghiệp cực kỳ tuyệt vời và đề cao trách nhiệm cá nhân - đã trải qua những diễn biến giống như những dự đoán tồi tệ của Roosevelt.

Mặc dù các lý tưởng của nhà nước phúc lợi vẫn còn mạnh ở Bắc Âu, các nhà lãnh đạo chính trị từ cánh tả sang cánh hữu ở các nước như Hà Lan, Thụy Điển và Đan Mạch đang tìm kiếm xây dựng một khế ước xã hội mới - chú trọng vào động lực làm việc, trách nhiệm cá nhân và thị trường bảo hiểm. Động lực đằng sau sự thay đổi chính trị đó không chỉ để hạn chế chi tiêu công hay thậm chí củng cố đạo đức nghề nghiệp. Ý tưởng cơ bản về chính sách phúc lợi là giúp các nhóm yếu thế tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình của họ. Rõ ràng, phúc lợi quá hào phóng không phải là con đường tốt nhất để hoàn thành mục tiêu đó. Ngay cả những người ủng hộ nhà nước phúc lợi quy mô lớn cũng đang loay hoay tìm kiếm sự cân bằng này. Phúc lợi hào phóng hơn không phải lúc nào cũng mang lại những điều tốt đẹp hơn cho những người kém may mắn hơn.

Nguồn: Tom G. Palmer, Self-Control or State Control? You Decide, Atlas Network 2016

Chú thích:

(38) Økonomi og indenrigsministeriet, “Økonomisk redegørelse August 2013,” tháng 8/2013

(39) Xem thêm Nima Sanandaji, “The Dutch rethink the welfare system,” New Geography, 11/02/2013. Truy cập ngày 10/7/2015 tại www.newgeography.com/content/004028-the-dutch-rethink-welfare-state.

(40) Trong cuộc bầu cử năm 2015, Đảng Bảo thủ ở Anh, trong nhiệm kỳ chính phủ trước đó đã thu hẹp những chương trình phúc lợi, và đã giành lại quyền bầu cử. Trước sự ngạc nhiên của thế giới, Đảng Bảo thủ đã tăng số ghế của họ để họ có thể thành lập một chính phủ đa số, thay vì chính phủ liên hiệp mà trước đây họ đã thành lập cùng với các Đảng Dân chủ Tự do.

(41) Financial Times, “Norway: Cruise Control”, 06/02/2014. 203

(42) Dagens Möjligheter, “Svensk arbetsmoral utklassar norrmännens", 14/11/2012

(43) Bjørgulf Claussen, Lisbeth Smeby, và Dag Bruusgaard, “Disability pension rates among immigrants in Norway”, Journal of Immigrant and Minority Health, số 14 (2012): 259-263.

(44) Dagbladet, “En «trygdesnylters» bekjennelser”, 31/3/2012.

(45) Gordon B Dahl, Andreas Ravndal Kostøl, và Magne Mogstad, "Family Welfare Cultures", The Quarterly Journal of Economics, số 129 (2014): 1711-52

(46) R. Fogel, "Catching Up with the Economy", 04/01/1999. Bài phát biểu trong cuộc họp do Hiệp hội kinh tế Mỹ tổ chức tại New York. Truy cập ngày 10/6/2015,

www.diegdi.de/fileadmin/user_upload/pdfs/messner/Fogel_Catching_up_with_the_economy.pdf

Dịch giả:
Nguyễn Thị Hồng An
Hiệu đính:
Đinh Tuấn Minh
Biên tập:
Palmer, Tom G.