Lịch sử phân tích kinh tế (Phần cuối)

Lịch sử phân tích kinh tế (Phần cuối)

3.9 Thời hậu Keynes

Sự phát triển kì diệu và song song của lí thuyết walrasian và của kinh tế học vĩ mô keynesian là nét nổi bật của phân tích kinh tế thời hậu chiến. Trước sự phát triển phong phú này, trong đoạn này chúng tôi chỉ giới hạn ở một chủ đề duy nhất, một chủ đề có những phân nhánh lí thuyết quan trọng, tức những cuộc tranh luận về thất nghiệp đã nổ ra để phản ứng lại trước những phân tích của Keynes.  

Sự được thua về mặt lí thuyết liên quan đến vị thế gán cho khái niệm thất nghiệp không tự nguyện – có thể chấp nhận khái niệm này về mặt lí thuyết không, và nếu được thì khái niệm qui chiếu về cân bằng hay mất cân bằng? Những câu hỏi này đòi hỏi phải làm rõ khái niệm cân bằng. Trên điểm này có hai quan điểm đối lập nhau. Với quan niệm đầu gắn với các nhà “cổ điển mới” thì khái niệm cân bằng là thống nhất, dù cho người ta có thể định nghĩa khác nhau – không có sự kích thích nào để thay đổi hành vi, cân bằng giữa cung và cầu, không còn những khả năng trao đổi có lợi cho mọi bên. Ngược lại, đối với quan niệm thứ nhì, gắn nhiều hơn với các nhà keynesian, những nghĩa trên không nhất thiết là giống nhau. Một tình thế được định nghĩa theo tiêu chí thứ nhất (không có kích thích nào để thay đổi hành vi) có thể là một hiện tượng mất cân bằng nếu đo theo hai tiêu chí sau. Mục tiêu được thua siêu lí thuyết của cuộc tranh luận là việc chấp nhận hay chối bỏ những chính sách kinh tế nhằm làm giảm tỉ suất thất nghiệp.

Nếu ta nhìn vấn đề theo một cách nhìn tân cổ điển, có thể phân biệt ba giai đoạn trong cuộc tranh luận. Sự thống trị của “tổng hợp tân cổ điển” là dấu ấn của giai đoạn thứ nhất. Tổng hợp này coi nhẹ tính độc đáo về mặt lí thuyết của Keynes mà vẫn chấp nhận những kết luận chính trị của tác giả này. Giống như chương hai của Lí thuyết tổng quát, chỉ có tiên đề thứ hại là được xét lại. Nhưng trong giai đoạn này có thể phân biệt nhiều hướng nghiên cứu khác nhau được chúng tôi gắn với tên của Hicks, Patinkin và Clower. Cuộc phản công chống keynesian đánh dấu giai đoạn thứ nhì, bắt đầu bằng trường phái trọng tiền và đạt đỉnh cao với lí thuyết “cổ điển mới”. Cuối cùng giai đoạn thứ ba là giai đoạn đánh trả lại cuộc phản công này.             

Dòng Hicks

Đường hướng này gắn với những cách đọc Lí thuyết tổng quát của Hicks và Modigliani, nhất là cách đọc của tác giả thứ nhất, nền tảng của cách kiến giải Keynes được phổ biến nhất và lấy mô hình IS-LM làm trọng tâm. Trong cách nhìn này, đặc thù của mô hình keynesian nằm ở dạng đặc biệt được gán cho một số hàm hành vi, đặc biệt là sự ưa thích thanh khoản và cung lao động. Và như vậy cách nhìn này từ chối chủ định về tính phổ quát hơn của lí thuyết keynesian nhưng lại đồng tình với chính sách keynesian. Một trong những ví dụ của cách kiến giải trên là quyển sách của Allen, Macro-economics. A Mathematical Treatment (1975). Thiểu dụng lao động được giải thích là do dạng đặc biệt của đường cung lao động – tính cứng nhắc trong chiều giảm của cung lao động kể từ một mức sàn của lương danh nghĩa. Trong những phân tích như vậy, khái niệm thất nghiệp không tự nguyện không được nêu lên một cách rõ ràng.   

Dòng Patinkin

Theo phân tích của Patinkin trong các chương 13 và 14 của Tiền tệ, tiền lãi và giá cả (1965), ý nghĩa duy nhất có khả năng được gán cho khái niệm thất nghiệp không tự nguyện là những người cung ứng lao động “nằm ngoài đường cung của họ”. Tuy nhiên chỉ có thể quan niệm một tình thế như vậy như một hiện tượng mất cân bằng và do đó là tạm thời. Nếu những điều chỉnh là tức thì, thì khái niệm không còn ích lợi gì nữa. Tham vọng về tính tổng quát của Keynes một lần nữa bị gạt bỏ – đối tượng của lí thuyết của ông chỉ là “the Economics of Depression1– nhưng dự phóng chính trị của ông được chấp nhận. Mối liên hệ giữa Patinkin và trường phái Pháp (hay Pháp-Bỉ) của lí thuyết mất cân bằng (Benassy, 1975; Drèze, 1975; Younes, 1975) được xác lập thông qua Barro và Grossman (1971). Trong bài viết này, hai tác giả cuối tổng hợp, có lẽ không được đúng lẽ lắm, quan điểm của Clower và Patinkin. Họ chấp nhận giả thiết những giá cứng nhắc và cuối cùng nêu lên sự phân biệt giữa những dạng cổ điển và keynesian của thất nghiệp được Malinvaud làm rõ trong cách phân loại nổi tiếng của ông (1977). Mục tiêu của những lí thuyết gia về mất cân bằng là chứng minh sự tồn tại của những mất cân bằng với hạn mức trong bối cảnh giá và lương là cứng nhắc. Người ta có thể nghĩ là với đóng góp của họ cuối cùng dự phóng thực dụng đã thành công. Tuy nhiên nếu đánh giá theo cách lí thuyết này được đón nhận thì không có gì là chắc chắn. Được đón nhận tốt tại châu Âu, nơi lí thuyết sinh sôi được nhiều công trình, lí thuyết bị gạt khỏi Hoa Kì, bởi chính ngay Barro và Grossman, dưới ảnh hưởng của sự phê phán “cổ điển mới”, được xem xét sau đây.

Dòng Clower

Clower (1965), mà tên tuổi cần được gắn với Leijonhufvud, nhấn mạnh hơn nhiều đến tính đổi mới về mặt lí thuyết của Keynes. Theo ông, mục tiêu ẩn ngầm của Keynes trong Lí thuyết tổng quát là xét lại “định luật Walras”, con “bò thiêng liêng” (để dùng lại thành ngữ của ông) của lí thuyết kinh tế. Mô hình Clower, với việc phân biệt cầu lí tưởng và cầu thực tế, khái niệm quyết định kép, mang lại kết quả là có một cân bằng giả. Mặc dù không có sự kích thích nào để thay đổi hành vi, nhưng sự phối hợp là không tối ưu và những khả năng trao đổi các bên cùng có lợi không được tận dụng hết. Nguồn gốc của vấn đề là do thông tin không được truyền tốt vì thiếu người xướng giá. Khiếm khuyết không nằm ở tính cứng nhắc của giá mà là do những hiện tượng khiến cho giá cả phản ứng không xuất hiện. Như vậy thật là điều ngạc nhiên khi Clower được coi là một người cha của lí thuyết mất cân bằng.   

Những nhà cổ điển mới

Vào đầu những năm 1970, cuộc tranh luận bước vào giai đoạn hai, phản ứng chống keynesian với hai cuộc tiến công, trước hết là một cuộc tiến công tiền tệ và tiếp đó là một cuộc tiến công “cổ điển mới”. Cách tiếp cận trọng tiền, gắn với tên của Friedman, là một cuộc tấn công nhẹ nhàng nhằm xoá đi những chỗ gồ ghề của lí thuyết keynesian. Mục tiêu là đường Phillips được hợp nhất, một cách đúng hay sai, vào gốc lí thuyết keynesian và, qua kinh nghiệm đã tỏ ra là khâu yếu của khung hệ thống này. Các nhà “cổ điển mới” về phần họ, dưới sự lãnh đạo của Lucas và Sargent, mở một cuộc tiến công rộng và trực diện vào kinh trắc học chịu ảnh hưởng keynesian và cả vào những khái niệm keynesian. Ở đây chúng tôi chỉ chú ý tới khía cạnh thứ nhì. Mục tiêu của họ là xây dựng lại kinh tế học vĩ mô trên hai cơ sở (mà dưới mắt họ chỉ là một), bù trừ của thị trường (“market clearing”) và giả thiết về hành vi tối đa hoá và dự kiến duy lí của các tác nhân kinh tế. Những quan điểm này là cơ sở cho phê phán của họ đối với cách tiếp cận mất cân bằng và đối với khái niệm thất nghiệp không tự nguyện. Về điểm thứ nhất, phê phán của họ nhắm vào tính chất được coi là ad hoc của giả thiết về tính cứng nhắc của giá và lương. Khi từ chối để lương thay đổi, những người cung và cầu lao động bỏ lỡ những cơ hội đánh đổi có thể có lợi cho hai bên. Do đó giả thiết về tính cứng nhắc là không tương thích với tiên đề về tính duy lí tối đa hoá trên đó, lí thuyết kinh tế được xây dựng một cách đồng thuận. Lập luận này cũng được dùng để phê phán khái niệm thất nghiệp không tự nguyện. Khái niệm quyết định duy lí kéo theo ý tưởng tự do lựa chọn. Khái niệm này cũng đòi hỏi là người ra quyết định hình dung tất cả những hệ quả có thể của những hành động của mình. Như thế, không thể quan niệm là một người lấy quyết định bị du vào một thế người đó không mong muốn, đã được tính đến lúc lấy quyết định, trừ khi lẫn lộn gọi bằng không tự nguyện một kết quả không làm người đó thỏa mãn. Bởi thế, họ cho rằng không thể chấp nhận về mặt lí thuyết khái niệm thất nghiệp không tự nguyện. Tương tự như vậy, đối với họ phân biệt của Keynes giữa một dạng thất nghiệp ma sát, được coi là tự nguyện và một dạng khác, không tự nguyện, là một sự phân biệt vô ích (Lucas, 1983: 240). Phê phán của họ còn nhắm vào những biện pháp của chính sách kinh tế, được coi là khai thác sự “trade-off” (đánh đổi) giữa lạm phát và việc làm, như được thể hiện qua những đường Phillips có dạng chuẩn. Đối với họ chỉ có một chính sách tiền tệ không được dự kiến trước mới có hiệu quả. Tóm lại, về mọi mặt quan niệm keynesian được xem là một đường vòng lí thuyết đáng tiếc. Từ đó họ chủ trương lấy lại chương trình nghiên cứu thịnh hành trước Keynes và đã được Hayek phát biểu. Nhằm mục đích này, Lucas (1975) đề nghị một cách kiến giải liên thời gian của đường cung lao động truyền thống, dựa trên sự đánh đổi giữa lao động và nhàn rỗi. Những biến động của việc làm như vậy được giải thích bằng những ảnh hưởng cộng dồn của các lựa chọn liên thời gian dựa trên những cách hiểu sai các tín hiệu-giá của thị trường mà không cần thiết phải từ bỏ những tiên đề truyền thống hay đưa vào những giao dịch “nằm ngoài đường cung”.           

Những cuộc phản công

Quan điểm của những nhà “cổ điển mới” đã gặt hái một thành công lớn, nhất là tại Hoa Kì và không chối cãi được là họ đã đẩy những người bảo vệ luận điểm tổng hợp vào thế phòng thủ. Ba loại phản công, khá bổ sung cho nhau, đã được đề ra. Loại thứ nhất, do những lí thuyết gia mất cân bằng đề xuất, nhằm cung cấp một cơ sở thực nghiệm cho giả thiết “tính nhớt” của lương. Hai loại phản công kia, lí thuyết hơn, chấp nhận giao tranh trên địa bàn của những người phản biện họ, chấp nhận những tiên đề về một hành vi tối đa hoá, khai thác hết những lợi thế của trao đổi và tính linh hoạt của lương. Một cách phản công nhằm chứng minh, trong khuôn khổ của cân bằng chung, là có thể có nhiều cân bằng. Cách phê phán tổng quát này đối với các nhà “cổ điển mới” được Diamond (1982) và Howitt (1985) ứng dụng vào trường hợp thất nghiệp. Một cách phản công, mang tính kinh tế vi mô, nhằm cung cấp một cơ sở cho tính duy lí của hành vi tối đa hoá khi lương là không linh hoạt. Do thiếu chỗ, chúng tôi tự giới hạn ở cách phản công cuối. Có thể coi cách này như việc trở về điểm xuất phát, tức chương 2 của Lí thuyết tổng quát. Điểm mới là lần này đến lượt tiên đề thứ nhất bị xét lại. Mặc dù bối cảnh nay bị ràng buộc hơn nhưng vấn đề vẫn là – như ta vừa thấy – thực hiện dự phóng thực dụng, tức là đặt cơ sở cho việc chấp nhận khái niệm thất nghiệp không tự nguyện. Một lần nữa, trực giác nằm sau điều này là đơn giản. Mục đích là chứng minh rằng doanh nghiệp có thể có lợi khi không ấn định lương thực tế ở mức lương cân bằng walrasian. Có thể tìm thấy lí do của việc này trong những hiện tượng “rủi ro đạo đức”, những khác biệt trong chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đặc biệt là chất lượng nhân công, những thông tin không đối xứng và những hành vi khác nhau trước rủi ro. Và từ đấy có thất nghiệp không tự nguyện. Người thất nghiệp không có khả năng theo một cuộc đấu giá trong chiều giảm vì các doanh nghiệp không được lợi gì trong những giao dịch như thế. Có cân bằng trong nghĩa thứ nhất ở trên, nghĩa là không có gì kích thích phải thay đổi, tuy nhiên hai tiêu chí còn lại của cân bằng không được thỏa mãn. Khái niệm lương hiệu quả, vốn đã có ở Marshall, theo đó năng suất lao động phụ thuộc vào lương trở thành điểm hội tụ cho một số tác giả; trong số này có thể kể tên của Akerlof và Yellen (1986) và Stiglitz (1987).

Những lí thuyết này là một bước tiến quan trọng cho sự thành công của dự phóng thực dụng. Tuy nhiên những lí thuyết này chắc chắn sẽ không kết thúc cuộc tranh luận vì trước hết lập luận của những lí thuyết này chủ yếu là lập luận cân bằng bộ phận và sau đó vì sẽ không thiếu những lập luận chống lại nêu bật lên những phương thức khác nhau có khả năng làm giảm tác động của những thông tin không đối xứng và của những hiện tượng “rủi ro đạo đức”. Mặt khác dựa trên những quan niệm này có thể có nhiều cách hiểu siêu lí thuyết. Hầu hết những tác giả bảo vệ các quan niệm này đều có cảm tình với những chính sách can thiệp keynesian. Nhưng cũng có những trường hợp ngược lại. Ví dụ một tác giả như Phelps (1985: 420) chấp nhận lí thuyết nhưng lại không chấp nhận kết luận chính trị thường được gán với lí thuyết này. Lần này đây là một vị thế ngược lại với những quan điểm được Patinkin và những tác giả của tổng hợp tân cổ điển phát triển. Những tác giả này coi nhẹ đóng góp lí thuyết của Keynes nhưng lại ủng hộ chính sách kinh tế keynesian. Còn Phelps chấp nhận ý tưởng thất nghiệp không tự nguyện nhưng lại hoài nghi khả năng chữa trị căn bệnh này.

*

*  *

Chúng tôi đã trình bày những đỉnh cao của lịch sử phân tích kinh tế. Chúng tôi đã kiến giải lịch sử này như một cuộc đối thoại liên thế hệ không ngừng nghỉ diễn ra trên hai bình diện: bình diện thảo luận thuần túy trí thức và vô tư và bình diện thảo luận chính trị trong đó những kết quả lí thuyết được dùng làm chỗ dựa cho những trực giác về cách tổ chức lí tưởng những hoạt động kinh tế. Đan chéo hai khía cạnh này của cuộc thảo luận đưa đến những thỏa hiệp đôi lúc nhằng nhịt, sự gần nhau về mặt siêu lí thuyết có thể che giấu một khác biệt lí thuyết, và ngược lại. Nhiều ví dụ về những trường hợp chênh lệch này đã được nêu lên.  

Nghiên cứu của chúng tôi cũng đã thử xét lại ý tưởng thường được chấp nhận về tính duy nhất lí thuyết của kinh tế học. Cách tiếp cận tân cổ điển không chỉ là cách tiếp cận duy nhất có thể quan niệm được mà còn ít thống nhất hơn là người ta tưởng một cách tiên nghiệm. Tương tự như thế, nghiên cứu cũng đã phát hiện là những tác phẩm kinh tế lớn tự bản thân thường thiếu tính nhất quán. Đây cũng là một vấn đề cần phải suy nghĩ. Phải coi đây là nét biểu lộ của sự phát triển chưa đầy đủ của khoa học kinh tế hay là biểu hiện cho một điều gì sâu sắc hơn, gắn liền với đối tượng giải thích của lí thuyết kinh tế, sự bất lực của bộ môn trong việc nắm bắt đối tượng của nó bằng một cách nhìn duy nhất.

Cuối cùng theo chúng tôi việc có tranh luận trong kinh tế học không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, sẽ hiếm dần đi với tiến bộ của hiểu biết. Tính chất này gắn một cách sâu sắc với đối tượng của bộ môn. Do lịch sử lí thuyết kinh tế nhằm làm rõ nguồn gốc của các cuộc tranh luận, nên chuyên ngành này là một bộ phận hợp nhất của kinh tế học và không tránh được tai hại nếu dồn nó vào những làn ranh của bộ môn này[*].

(Hết)

Chú thích:

(1) Kinh tế học về suy thoáI (ND)

(*) Tôi xin cảm ơn J. Cassiers, J. Lallement, R. Leroy, C. Ménard, P. Van Parys, và đặc biệt là P. Mongin, về những lời bình qúy báu.

Nguồn: “Histoire de l’analyse économiques” của Michel De Vroey trong Encyclopédie économique (Bách khoa kinh tế), nhà xuất bản Economica, Paris, 1990, trang 55-92

Nguồn dịch: Phantichkinhte123:Lịch sử phân tích kinh tế

Dịch giả:
Nguyễn Đôn Phước