Các thể chế (Phần 4)
Sự tiến hóa của thể chế trong giai đoạn châu Âu cận đại
Đối nghịch với các hệ thống trao đổi nguyên thủy, thương mại đường dài vào thời châu Âu cận đại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 16 là câu chuyện về hình thái ngày càng phức tạp và thậm chí đã dẫn đến sự phát triển của thế giới phương Tây. Đầu tiên tôi sẽ mô tả ngắn gọn sự phát triển sáng tạo đó và sau đó sẽ khám phá một vài nguyên nhân cơ bản của chúng.1
Những đổi mới sáng tạo làm giảm chi phí giao dịch bao gồm những thay đổi về tổ chức, công cụ, kỹ thuật cụ thể và những đặc điểm của cơ chế hành pháp góp phần hạ thấp chi phí tham gia vào hoạt động trao đổi với khoảng cách địa lý dài. Những đổi mới sáng tạo diễn ra ở ba loại chi phí bên rìa: (1) những thứ làm tăng sức lưu chuyển vốn, (2) những thứ làm giảm chi phí thông tin, và (3) những thứ phân tán rủi ro. Rõ ràng, các nhóm trên có sự đan chéo nhau, nhưng cách phân loại này cung cấp cách thức hiệu quả để phân biệt những đặc điểm có khả năng giảm chi phí của hoạt động giao dịch. Tất cả những đổi mới sáng tạo trên có nguồn gốc từ những giai đoạn sớm hơn; hầu hết được thu lượm, chắt lọc từ các thành bang thời trung cổ của Ý, hay từ người Hồi giáo hay người La Mã phương Đông, và sau đó chúng đươc phát triển tinh xảo hơn.
Trong số những đổi mới sáng tạo làm nâng cao sức lưu chuyển vốn nổi lên là những kỹ thuật và cách thức lách luật cấm cho vay nặng lãi. Sự đa dạng các cách thức tinh vi để che đậy lãi vay trong hợp đồng vay trải dài từ “phạt do thanh toán muộn” cho đến hiệu chỉnh tỷ giá (Lopez và Raymon, 1955, tr. 163), dạng thức sơ khai của thế chấp; nhưng tất cả các cách trên đều làm tăng chi phí của hợp đồng. Trở ngại do luật cho vay nặng lãi gây ra không chỉ ở chỗ nó khiến cho phải soạn bản những hợp đồng phức tạp, cồng kềnh nhằm trá hình các khoản lãi mà còn là việc thực hiện những hợp đồng như vậy cũng trở nên khó khăn hơn. Khi nhu cầu về vốn tăng và hành vi né tránh luật trở nên phổ biến, luật chống cho vay nặng lãi dần dần bị phá bỏ và lãi suất được thừa nhận. Nhờ đó, chi phí của soạn thảo hợp đồng và chi phí thực hiện các hợp đồng đó giảm đi.
Đổi mới sáng tạo thứ hai giúp tăng sức lưu chuyển vốn, và nhận được nhiều sự chú ý nhất, là sự tiến hóa của hối phiếu đòi nợ2 (yêu cầu thanh toán vào ngày cụ thể, chẳng hạn 120 ngày sau khi phát hành, thường được ký phát bởi người bán trao cho người mua khi giao hàng) và cụ thể, sự phát triển của kỹ thuật và công cụ tạo điều kiện cho việc thương lượng cũng như phát triển phương thức chiết khấu. Đến lượt, các phương thức thương lượng và chiết khấu lại phụ thuộc vào sự hình thành các thể chế cho phép sử dụng chúng và sự phát triển của các trung tâm để có thể thực hiện những hoạt động đó: đầu tiên là ở những hội chợ, ví dụ như hội chợ trao đổi hàng hóa ở Champagne đóng vai trò nổi bật trong trao đổi thương mại ở châu Âu thế kỷ 12 và 13; sau đó thông qua các ngân hàng; và cuối cùng là qua các tổ chức tài chính chuyên chiết khấu. Những sự phát triển đó trở thành đòi hỏi phải đáp ứng không chỉ là của những thể chế cụ thể mà còn là của hoạt động kinh tế theo quy mô. Sự gia tăng quy mô rõ ràng khiến cho những sự phát triển về mặt thể chế như thế trở nên khả dĩ. Bên cạnh sự cần thiết của việc tăng quy mô đối với sự phát triển của hối phiếu đòi nợ, việc cải thiện tính thực thi của hợp đồng đóng vai trò then chốt: ngoài ra, mối quan hệ lẫn nhau giữa sự phát triển của các phương pháp kế toán và kiểm toán và việc sử sử dụng chúng như là bằng chứng trong việc thu nợ và thực hiện hợp đồng cũng đóng một phần quan trọng (Yamey, 1949; Watts và Zimmerman, 1983).
Còn có một đổi mới sáng tạo thứ ba nữa tác động đến sức lưu chuyển vốn nảy sinh từ vấn đề liên quan đến việc duy trì kiểm soát các đại diện (agent) tham gia hoạt động thương mại đường dài. Giải pháp truyền thống cho vấn đề này thời Trung cổ và cận đại là sử dụng mối quan hệ họ hàng và thân thuộc để ràng buộc người đại diện và người chủ với nhau. Tuy nhiên, khi quy mô và phạm vi của các đế chế thương mại tăng lên, nhu cầu phải mở rộng phạm vi những người có quyền ra quyết định tuỳ nghi ra ngoài mối quan hệ họ hàng của người chủ đòi hỏi cần có sự phát triển phức tạp hơn của các quy trình kế toán nhằm giám sát hành vi của người đại diện.
Những phát triển chính trong lĩnh vực chi phí thông tin là việc niêm yết giá của các hàng hóa khác nhau, cũng như việc in ấn những bản hướng dẫn sử dụng cung cấp thông tin về khối lượng, thước đo, các nghĩa vụ hải quan, phí môi giới, hệ thống điện tín, và đặc biệt là các mức tỷ giá phức tạp giữa các loại tiền tệ ở châu Âu và các nước trên thế giới có giao dịch. Rõ ràng những phát triển này đóng vai trò cơ bản trong việc thúc đẩy quy mô thương mại quốc tế, và do đó mang đến tính kinh tế nhờ quy mô.
Loại đổi mới sáng tạo cuối là những thay đổi từ tình trạng bất trắc thành tình trạng rủi ro. Tình trạng bất trắc mà tôi đề cập ở đây, chỉ một tình trạng ở đó một người không thể chắc chắn về xác suất của một sự kiện, và do đó không thể chuẩn bị được những giải pháp phòng vệ phù hợp khi xảy ra sự việc. Trong khi đó, tình trạng rủi ro hàm chứa khả năng xác định về mặt thống kê khả năng có thể xảy ra của một sự kiện, và do đó có giải pháp phòng vệ cho từng kết quả. Trong xã hội hiện đại, bảo hiểm và đa dạng hóa danh mục đầu tư là những cách thức nhằm chuyển đổi trạng thái bất trắc thành các loại rủi ro, bằng cách đó giảm chi phí giao dịch thông qua sự dự phòng đối với mức độ biến động.Vào thời Trung cổ và cận đại, những phương thức chuyển đổi bất trắc thành rủi ro cũng được tìm thấy.Ví dụ, bảo hiểm hàng hải đã hình thành từ những hợp đồng riêng lẻ, rời rạc, có mục đích bao thanh toán một phần cho những khoản thua lỗ của những hợp đồng do những hãng kinh doanh chuyên biệt phát hành. Như De Roover (1945, tr.198) đã mô tả:
Tới Thế kỷ 15, bảo hiểm hàng hải được thiết lập dựa trên nguyên tắc đảm bảo an toàn. Hình thức của các chính sách bảo hiểm đó đã trở thành khuôn mẫu và có rất ít thay đổi trong suốt ba trăm hoặc bốn trăm năm. Trong Thế kỷ 16, bảo hiểm đã trở thành hoạt động thông thường và được in thành các mẫu biểu với các khoảng trống để điền tên của tàu, tên của chủ sở hữu, số lượng bảo hiểm, phí bảo hiểm và một vài những khoản mục khác phù hợp để thay đổi cho các hợp đồng khác nhau.
Một ví dụ khác về sự phát triển giải pháp tính toán giảm thiểu rủi ro là việc hình thành tổ chức kinh doanh phân tán rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư hoặc qua các định chế cho phép một số lượng lớn các nhà đầu tư cùng tham gia vào những hoạt động có tính rủi ro. Chẳng hạn, commenda là một loại hợp đồng được dùng trong thương mại đường dài giữa một đối tác nằm ở một nơi cố định và một đối tác hoạt động chuyên trở hàng hóa. Loại hợp đồng này có nguồn gốc từ người Do Thái, người Hồi giáo và La Mã (Udovitch, 1962), sau đó được sử dụng thường xuyên bởi người Ý và công ty hoạt động theo luật Anh, và cuối cùng là công ty cổ phần; đó là câu chuyện tiến hóa của quá trình thể chế hóa về chia sẻ rủi ro.
Những đổi mới sáng tạo cũng như những công cụ thể chế này đã tiến hoá từ sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai nhân tố kinh tế nền tảng: tính kinh tế nhờ quy mô gắn với sự phát triển nhanh chóng của thương mại, và sự phát triển của các cơ chế thực thi hợp đồng với chi phí thấp hơn. Kết quả được tạo ra theo hai kênh. Đầu tiên, sự gia tăng thương mại đường dài làm tăng tỷ suất lợi nhuận cho những thương nhân đưa ra cơ chế thực thi hợp đồng hiệu quả. Đến lượt, sự phát triển của cơ chế thực thi hợp đồng làm giảm chi phí giao dịch và khiến hoạt động thương mại trỏ nên kiếm được lợi nhuận cao hơn, do đó giúp làm tăng về quy mô thương mại đường dài.
Quá trình phát triển những cơ chế thực thi hợp đồng mới là một con đường dài. Trong bối cảnh có nhiều loại toà án giải quyết những tranh chấp thương mại, thì chính sự phát triển những cơ chế thực thi bởi bản thân các thương nhân đóng vai trò quan trọng. Hiệu lực thực thi dường như bắt nguồn từ sự phát triển của quy tắc ứng xử nội bộ của các phường hội mà thương nhân tham gia; những người không cư xử đúng những quy tắc đó có nguy cơ bị khai trừ. Bước tiến xa hơn nữa chính là sự phát triển của luật thương mại. Các thương nhân thường mang theo mình trong những chuyến thương mại đường dài các cuốn quy tắc ứng xử, khiến cho các luật của thành phố Pisa được phổ biến thành các quy tắc giao thương trên biển Marseilles; Oleron và Lubeck mang luật tới Bắc Âu, Barcelona mang luật đến Nam Âu3; và từ Ý về các các nguyên tắc pháp lý về bảo hiểm và hối phiếu đòi nợ đã ra đời (Mitchell, 1969, tr. 156)
Sự phát triển của các phương pháp kế toán phức tạp hơn và của các loại văn bản có công chứng đã cung cấp bằng chứng chắc chắn trong các tranh chấp. Sự pha trộn dần dần của các cơ chế thực thi hợp đồng tự nguyện thông qua nội bộ các tổ chức thương nhân với cơ chế thực thi do nhà nước áp đặt chiếm một phần quan trọng của câu chuyện về thúc đẩy hiệu lực thực thi hợp đồng. Những bước tiến dài trong luật thương mại từ sự tự nguyện ban đầu và sự khác nhau trong cách giải quyết của cả thông luật và luật La Mã cũng là một phần của câu chuyện.
Nhà nước là người chơi chính trong toàn bộ quá trình này và đó là cuộc chơi có sự tác động liên tục lẫn nhau giữa nhu cầu tài khóa của nhà nước và uy tín của nó trong mối quan hệ với các thương gia và công dân nói chung. Cụ thể, sự tiến hóa của các thị trường vốn chịu ảnh hưởng rất lớn từ các chính sách của nhà nước; tới chừng nào nhà nước còn bị ràng buộc bởi những cam kết sẽ không xung công tài sản hoặc sử dụng sức mạnh cưỡng chế dẫn đến sự gia tăng tính bất định cho hoạt động trao đổi, thì sự tiến hóa của các thể chế tài chính và việc hình thành các thị trường vốn hiệu quả hơn còn khả dĩ. Việc ngăn cản những hành vi chuyên quyền của các nhà cầm quyền và sự phát triển của những luật lệ không mang tính cá nhân đã mang đến thành công trong việc ràng buộc cả nhà nước và các tổ chức tự nguyện; đây chính là nhân tố đóng vai trò then chốt của toàn bộ quá trình này. Sự phát triển của quy trình được thể chế hoá, theo đó nợ chính phủ có thể được lưu thông, trở thành một phần thị trường vốn thường ngày, và được hỗ trợ bởi các nguồn thuế thường xuyên, cũng là một nhân tố quan trọng khác (Tracy, 1985; North và Weingast, 1989).
Cụ thể ở Amsterdam, Hà Lan, những đổi mới sáng tạo và thể chế đa dạng này đã được kết hợp lại để tạo thành hình mẫu hiện đại đầu tiên về một tập hợp các thị trường nối kết với nhau một cách hiệu quả, có khả năng thúc đẩy trao đổi và thương mại. Một chính sách nhập cư mở cũng góp phần thu hút các doanh nhân. Các cách thức huy động tài chính hiệu quả cho thương mại đường dài đã được phát triển, khi mà thị trường vốn và các phương thức chiết khấu bởi các tổ chức tài chính giúp làm giảm chi phí bảo hiểm cho loại hình thương mại này. Sự phát triển của các công cụ phân tán rủi ro và chuyển tình trạng bất trắc thành rủi ro có thể tính toán, xác định được, cũng như việc tạo ra các thị trường có quy mô lớn giúp làm giảm các loại chi phí thông tin, và sự phát triển các công cụ nợ chính phủ có thể thương lượng cũng là một phần của câu chuyện (Barbour, 1949).
(còn nữa)
Chú thích:
(1) Xem mô tả chi tiết và phân tích về phát triển thương mại ở châu Âu tại Tracy (sắp! ra mắt), cụ thể quyển 2. Về phân tích lý thuyết trò chơi đối với một khía cạnh của sự phục hưng thương mại này, xem North và Weingast (1990)
(2) Chú thích của người dịch: Hối phiếu đòi nợ được đảm bảo thanh toán bởi cả bên ký phát (người thụ hưởng hay người bán) và bên bị ký phát (bên phải thanh toán hay bên mua). Nó là công cụ có tính lưu thông rộng rãi do mức độ tin cậy trong thanh toán là cao, tăng cường vai trò của tín dụng thương mại, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa.
(3) [Chú thích của người dịch] Oleron: một hòn đảo đảo lớn bên bờ biển phía tây nước Pháp; Lubeck: thành phố cảng ở phía bắc nước Đức; Barcelona: một thành phố của Tây Ban Nha.