Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 4)

Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 4)

Cho đến nay chúng ta đã nói về quan điểm cho rằng chúng ta không thể ca ngợi hay chê trách, bởi vì chúng ta biết - hay một ngày nào đó chúng ta sẽ biết, hay dù sao thì chúng ta cũng có thể biết - quá nhiều về chuyện đó. Do một nghịch lí lạ lùng mà một số người cũng đi đến lập trường y như thế, mặc dù họ giữ quan điểm tựa hồ như hoàn toàn đối nghịch lại lập trường ấy; họ cho rằng chúng ta không thể ca ngợi hay chê trách không phải vì chúng ta biết quá nhiều, mà vì chúng ta biết quá ít. Các nhà sử học thấm nhuần một cảm nhận khiêm nhường trước cơ hội và những khó khăn nơi nhiệm vụ của họ, cân nhắc tầm quan trọng nơi những yêu sách của con người và sự nhỏ bé nơi tri thức và phán xét của con người, [họ] nghiêm khắc cảnh báo chúng ta chống lại việc lập ra những giá trị thiển cận của chúng ta, cứ như là có giá trị phổ quát và áp dụng những điều, nhiều nhất là đứng vững được cho một bộ phận nhỏ của nhân loại, trong một khoảng thời gian ngắn, ở một xó tầm thường nào đó của vũ trụ, [áp dụng những điều như thế] cho mọi sinh linh ở mọi nơi chốn và trong tất cả mọi thời gian. Những nhà hiện thực luận có tinh thần cứng cỏi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx và những nhà biện giải Kitô giáo, khác biệt nhau rất sâu sắc về quan điểm, về phương pháp, về những kết luận, thế nhưng họ đều thống nhất với nhau ở điểm này. Những người thứ nhất97 nói với chúng ta rằng những nguyên lí xã hội và kinh tế, mà ví dụ như những người Anh thời Victoria đã chấp nhận như cơ bản và vĩnh viễn, chỉ là những mối quan tâm của một cộng đồng ở một hòn đảo đặc thù, vào một thời điểm đặc biệt trong sự phát triển xã hội và thương mại của nó; những chân lí mà họ ràng buộc một cách giáo điều cho bản thân mình và cho những người khác và nhân danh chúng mà họ cảm thấy được biện minh trong hành động mà họ đã làm, [những chân lí ấy] chỉ là những nhu cầu nhất thời đang trôi qua về kinh tế hay chính trị và là những yêu sách ngụy trang như chân lí phổ quát, và chúng vang lên ngày càng trống rỗng hơn ở trong tai của các dân tộc khác có những mối quan tâm đối lập lại đang gia tăng, vì họ thấy mình thường xuyên là kẻ thua cuộc trong trò chơi mà luật chơi do phía mạnh hơn đặt ra. Rồi đến ngày bình minh rạng lên, khi đến lượt họ có được quyền lực đủ mạnh và đảo ngược tình thế, [họ] biến đổi giá trị đạo đức quốc tế, mặc dù một cách không có ý thức, để thích hợp với họ. Chẳng có gì là tuyệt đối, các giá trị đạo đức biến thiên trong chốc lát giống như phân bố quyền lực: giá trị đạo đức thịnh hành bao giờ cũng là giá trị đạo đức của kẻ chiến thắng; chúng ta không thể đòi hỏi duy trì thang bậc công lí thậm chí giữa họ và những nạn nhân của họ, vì chính bản thân chúng ta cũng thuộc về phía này hay phía kia; theo giả thuyết (ex hypothesi) chúng ta không thể nhìn thế giới cùng lúc từ nhiều vị trí lợi thế khác nhau. Nếu chúng ta khăng khăng đòi phán xét những người khác dưới dạng thức những chuẩn mực nhất thời của chúng ta, thì chúng ta cũng không được phân đối quá nhiều, nếu họ, về phần mình, phán xét chúng ta dưới dạng thức các chuẩn mực của họ; nếu những người ra vẻ ta đây đạo đức hơn người trong chúng ta vội lên án những chuẩn mực ấy, thì những người đó cũng không có lí do nào tốt hơn là nói rằng những chuẩn mực ấy không phải là những chuẩn mực của chúng ta.

Một số người trong những đối thủ theo Kitô giáo của họ, xuất phát từ những giả thiết rất khác biệt, nhìn thấy con người như những sinh linh yếu ớt đang mò mẫm trong bóng tối, chỉ biết đôi chút về những sự vật xảy ra thế nào, hay trong lịch sử điều gì dứt khoát gây nên điều gì, và mọi chuyện đã có thể biến đổi thế nào, ngoại trừ những sự kiện hay tình thế khó nhận thấy được, không có dấu vết. Họ tranh cãi rằng con người thường tìm cách làm những điều đúng đắn theo ánh sáng soi rọi hiểu biết của họ, nhưng ánh sáng ấy lại lờ mờ, mờ nhạt đến mức sự rọi sáng để lộ ra những phương diện rất khác nhau về cuộc sống cho những người quan sát khác nhau. Cho nên những người Anh đi theo những truyền thống riêng của họ, những người Đức tranh đấu cho sự phát triển những truyền thống của mình, người Nga thay đổi đột ngột với truyền thống của họ và truyền thống của những dân tộc khác; và kết quả thường đẫm máu, đau khổ tràn lan, sự tàn phá những gì có giá trị cao nhất trong những nền văn hóa khác nhau vốn đang rơi vào đụng độ đầy bạo lực. Con người dự tính, nhưng thói độc ác và phi lí ở trong con người - một sinh linh mỏng manh, sinh ra để đau buồn - phải chịu trách nhiệm về nhiều thảm họa xảy ra. Những thảm họa này ắt phải có do bản thân “tình trạng khó xử của con người”, như nhà sử học xuất sắc theo Kitô giáo Herbert Butterfield98 định danh - vấn đề ở chỗ con người thường hay tưởng mình là khá đạo đức, nhưng lại không hoàn hảo và bị bắt buộc cứ phải như vậy do tội lỗi tổ tông, ngu dốt, hấp tấp, vênh váo, vị kỉ, lầm lạc, gây hại không chủ tâm, phá hủy những thứ định cứu rỗi, củng cố những thứ định phá hủy. Nếu giả sử chúng ta hiểu biết nhiều hơn, có lẽ chúng ta đã có thể làm tốt hơn, thế nhưng trí tuệ của chúng ta bị giới hạn. Đối với Butterfield, nếu tôi hiểu đúng ông ta, “tình trạng khó xử của con người” là sản phẩm của tương tác phức tạp giữa vô số những yếu tố mà chỉ một số ít yếu tố ấy là được biết, số yếu tố có thể kiểm soát được còn ít hơn nữa, số những yếu tố khó nhận biết được là lớn hơn nhiều. Cho nên điều tối thiểu chúng ta có thể làm, ấy là thừa nhận điều kiện của chúng ta với thái độ khiêm nhường thích đáng, và vì chúng ta bị lôi cuốn vào bóng tối chung, một số ít trong chúng ta loạng choạng trong đó hướng đến mục đích to lớn hơn những người khác (ít nhất trong phối cảnh của toàn thể lịch sử con người), chúng ta phải thực hành sự hiểu biết và lòng nhân đức. Điều tối thiểu chúng ta có thể làm trong tư cách các nhà sử học, ấy là nói thật cẩn trọng không vượt quá những điều chúng ta được quyền nói, ấy là phải đình chỉ việc phán xét; không ca ngợi cũng không chê trách; vì rằng bằng chứng luôn luôn là không đủ, và thủ phạm bị buộc tội giống như những người đi bơi bị mắc kẹt trong dòng nước giao nhau và xoáy nước ở bên ngoài sự kiểm soát của anh ta Hình như một triết thuyết không phải khác lắm có thể được tìm thấy trong những trước tác của Tolstoy, của những người bi quan và những nhà tu hành tĩnh tịch khác, có tính tôn giáo và phi tôn giáo. Đối với những người này, đặc biệt là những người bảo thủ nhất trong họ, cuộc đời là một dòng chảy chuyển động theo một hướng nhất định, hay có lẽ là một đại dương không có thủy triều, thi thoảng bị khuấy động bởi những cơn gió nhẹ. Số lượng những yếu tố khiến cho nó là như vậy, thì rất lớn, thế nhưng chúng ta chỉ biết được rất ít những yếu tố ấy. Do đó, tìm cách biến cải những sự vật một cách căn bản dưới dạng tri thức của chúng ta là không hiện thực, thường đi đến chỗ phi lí. Chúng ta không thể kháng cự lại dòng chảy trung tâm vì nó mạnh hơn chúng ta nhiều, chúng ta chỉ có thể điều chỉnh cánh buồm theo gió và tránh va chạm với những tổ chức to lớn cố định ở thế giới của chúng ta, [tránh va chạm] với những định luật vật lí và sinh học của nó, và những tổ chức to lớn của con người với gốc rễ ăn sâu vào quá khứ - những đế chế, những Giáo hội, những niềm tin đã được sắp xếp và những tập quán của loài người. Vì nếu chúng ta kháng cự lại những thứ ấy, con tàu nhỏ của chúng ta sẽ bị đắm chìm và chúng ta mất mạng sống của mình chẳng vì mục đích gì. Sự sáng suốt nằm ở việc tránh được những tình huống mà ở đó chúng ta có thể bị lật thuyền, bằng cách sử dụng gió thổi thật khéo léo như có thể, sao cho chúng ta có thể kéo dài thời gian của riêng chúng ta, bảo tồn được di sản của quá khứ, và không vội vã hướng về một tương lai mà nó sẽ đến khá sớm và có thể còn tăm tối hơn cái hiện tại u sầu. Theo quan điểm này thì chính là tình trạng khó xử của con người - tình trạng bất cân xứng giữa bản thiết kế rộng lớn bao la của chúng ta và những phương tiện yếu ớt của chúng ta - chính nó phải chịu trách nhiệm cho phần lớn những đau khổ và bất công trên thế giới. Nếu không có trợ giúp, nếu không có ân huệ thánh thần, hoặc hình thức này hay hình thức kia của sự can thiệp thần thánh, thì trong bất cứ tình huống nào chúng ta cũng sẽ không thành công. Vậy chúng ta hãy khoan dung, nhân từ, và thấu hiểu và tránh hành động điên rồ trong việc kết tội phía bên này hay phía bên kia, là những hành động sẽ phơi bày chúng ta cho tiếng cười nhạo hay sự thương hại của những thế hệ sau. Vậy chúng ta hãy cố nhận ra được những gì chúng ta có thể - đường nét phác họa nào đó của một khuôn mẫu - trong hình bóng của quá khứ, vì ngay cả chuyện này chắc cũng đủ khó khăn rồi.

Theo một nghĩa quan trọng, tất nhiên những nhà hiện thực đang sôi sục và những người bi quan theo Kitô giáo đều có lí. Thói ưa bắt lỗi, thói tố cáo trả đũa, thói mù quáng đạo đức hay cảm xúc đối với lối sống và quan điểm cũng như đối với tình trạng phức tạp khó xử của những người khác, thói cuồng tín trí tuệ và đạo đức, [những thứ đó] đều là những tật xấu trong việc viết lịch sử cũng như trong cuộc sống. Chắc chắn Gibbon và Michelet, Macaulay và Carlyle, Taine và Trotsky (chỉ nhắc đến những người đã chết nổi tiếng) quả có thử thách lòng kiên nhẫn của những người không chấp nhận quan điểm của họ. Mặc dù vậy, sự hiệu chỉnh này đối với sự thiên vị giáo điều, giống như sự hiệu chỉnh đối lập lại, học thuyết về thiên kiến không tránh khỏi bằng cách chuyển đổi trách nhiệm lên sự yếu ớt và ngu dốt của con người, và đồng nhất hóa bản thân tình trạng khó xử của con người như một yếu tố trung tâm tối hậu trong lịch sử con người, [những thứ này] rốt cuộc theo một con đường khác dẫn chúng ta đến chính cùng một lập trường, giống như học thuyết nói rằng biết tất cả là tha thứ tất cả; chỉ có điều đối với những người này nó được thay bằng công thức nói rằng biết càng ít thì chúng ta càng ít có lí do để chê trách; vì tri thức chỉ có thể dẫn đến hiểu rõ hơn về chuyện những mong ước của con người hay thậm chí ngay cả những khát khao không ý thức của họ đóng một vai trò nhỏ bé đến thế nào trong đời sống của hoàn vũ, từ đó bộc lộ ra tính phi lí của việc đặt trách nhiệm nghiêm khắc lên vai của những cá nhân, hoặc là của các giai cấp, hay các Nhà nước, hay các quốc gia.99 

Hai tình tiết phát triển tư tưởng riêng rẽ được bao hàm trong lời bào chữa hiện đại vì một nỗ lực hơn nữa trong việc thấu hiểu, và vì những cảnh báo hợp thời trang chống lại thói ưa bắt lỗi, thói răn dạy đạo đức, viết sử thiên vị. Trước hết có quan điểm cho rằng các cá nhân và các nhóm người luôn luôn, hay ít nhất cũng thường hay như thế hơn là không, nhằm vào việc đạt được những gì họ khao khát; nhưng do ngu dốt hay yếu ớt, hay do tính phức tạp của thế giới mà sự thấu hiểu cũng như tài khéo léo của con người không thể hiểu được hay kiểm soát được thật đầy đủ, do đó mà họ cảm nhận và hành động theo một cung cách khiến cho kết quả rất thường xuyên lại là thật tai hại cho cả họ lẫn cho những người khác, khiến họ bị mắc kẹt trong tình trạng khó xử chung của con người. Nhưng vẫn chỉ có bản thân tình trạng khó xử của con người, tính bất toàn của con người, là bị chê trách nhiều nhất cho kết quả đó, chứ không phải là những mục đích của con người. Sau nữa, có luận đề tiếp theo cho rằng trong khi định giải thích những tình huống lịch sử và phân tích chúng, tháo gỡ những ngọn nguồn của chúng và vạch ra những hậu quả của chúng, và tất nhiên từ đó xác định được trách nhiệm về phần tử này hay phần tử kia trong tình huống, nhà sử học, dù có tách mình ra, sáng suốt, tỉ mỉ, điềm tĩnh vô tư đến đâu, dù có tài hình dung bản thân mình ở trong địa vị của những người khác khéo đến đâu, thì vẫn phải đối diện với một mạng lưới các sự kiện thật quá nhỏ bé, liên quan đến những mối liên kết hết sức dày đặc và quá phức tạp, khiến cho sự ngu dốt của anh ta bao giờ cũng phải có sức nặng vượt quá xa tri thức của anh ta. Hệ quả là phán xét của anh ta, đặc biệt là phán xét đánh giá, luôn luôn phải dựa trên những dữ liệu không đầy đủ; và nếu anh ta có thành công trong việc rọi được chút ít ánh sáng vào một góc nhỏ nào đó của một khuôn mẫu phức tạp rộng bao la của quá khứ, thì anh ta đã làm được một việc mà bất cứ con người nào từ xưa tới nay có thể hi vọng làm được. Những khó khăn của việc gỡ rối ngay cả một phần nhỏ của chân lí lớn lao đến nỗi, nếu anh ta là một người thực hành trung thực và nghiêm chỉnh, chẳng bao lâu anh ta sẽ nhận ra được mình còn ở xa đến đâu trong vị trí của người răn dạy đạo đức; hệ quả là ca ngợi và chê trách, như các nhà sử học và các nhà báo vẫn làm thật dễ dàng và lém lỉnh đến thế, đều là quá tự tin, ngớ ngẩn, vô trách nhiệm và không chính đáng.

Luận đề thoạt nhìn đã thấy là rất nhân bản và thuyết phục này100, tuy nhiên lại là hai chứ không phải một. Một luận đề, ấy là nói rằng con người dự tính, nhưng hậu quả lại thường rất hay ở bên ngoài sự kiểm soát hoặc bên ngoài khả năng tiên đoán hay ngăn ngừa của anh ta; nói rằng vì các động cơ của con người ít khi có ảnh hưởng quyết định đến tiến trình thực sự của các sự kiện, nên chúng phải không đóng vai trò lớn nào trong tường thuật của nhà sử học; và nói rằng vì công việc của nhà sử học là khám phá và miêu tả những gì đã xảy ra, như thế nào và tại sao, nếu anh ta cho phép những ý kiến đạo đức của anh ta về tính cách và động cơ của con người - những thứ ít tác động đến tất cả các yếu tố lịch sử - làm méo mó những diễn giải của anh ta, bằng cách ấy anh ta thổi phồng tầm quan trọng của chúng vì những lí do thuần túy chủ quan hay mang tính tâm lí. Vì đề cập đến những gì có thể là quan trọng như tự thân nó (eo ipso) có ảnh hưởng lịch sử, nên như thế tức là bóp méo các sự kiện. Đó là một lập trường hoàn toàn rõ ràng. Một luận đề khác, rất khác biệt với lập trường đó, ấy là cho rằng tri thức của chúng ta không bao giờ là đủ để biện minh cho chúng ta trong việc xác định trách nhiệm, nếu có thứ gì đó thực sự là thế. Một hữu thể toàn thức (nếu đó là ý kiến có thể giữ được) ắt có thể làm điều đó, nhưng chúng ta không thấu suốt mọi việc, và những quy kết của chúng ta vì vậy là quá tự tin một cách phi lí; nhận biết được điều này và cảm thấy một mức độ thích đáng tính khiêm nhường, ấy là khởi đầu của sự sáng suốt về lịch sử.

Rất có thể cả hai luận đề ấy đều là đúng. Và tiếp đó, có thể cả hai đều nảy sinh từ cùng một loại kết án bi quan về sự yếu ớt, sự mù quáng và thiếu hiệu quả của con người cả trong suy nghĩ và hành động. Mặc dù vậy, những quan điểm u buồn đó là hai chứ không phải một: luận đề thứ nhất là một luận cứ lấy từ tính thiếu hiệu quả, luận đề thứ hai lấy từ sự ngu dốt; và hoặc giả một cái có thể đúng còn cái kia là sai. Hơn thế nữa, không luận đề nào có vẻ phù hợp với niềm tin chung, cũng không luận đề nào phù hợp với thực hành của những người bình thường hay những nhà sử học bình thường; mỗi luận đề đều có vẻ khả tín và không khả tín theo một cách riêng nào đó, và mỗi luận đề đều xứng đáng được bảo vệ hay bác bỏ. Tuy nhiên, ít nhất cũng có một ngụ ý chung cho cả hai: trách nhiệm cá nhân trong cả hai học thuyết đều bị làm cho tan biến mất. Chúng ta không thể tán thưởng mà cũng không thể chê trách các cá nhân hay các nhóm người, bởi vì họ không thể tự mình chủ động được (và tất cả tri thức đều là một sự thấu hiểu gia tăng thật chính xác về điều này), hoặc trái lại là bởi chúng ta biết quá ít nên chẳng biết được cả phía này lẫn phía đối lập lại nó. Nhưng nếu thế thì - chắc chẳn phải suy ra điều này - chúng ta cũng không thể đưa ra những cáo buộc về dạy đời hay thiên vị chống lại những nhà sử học có thiên hướng ca ngợi và chê trách, vì tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con tàu, và chẳng có một chuẩn mực nào có thể được gọi là khách quan cao hơn bất kì chuẩn mực nào khác. Vì theo quan điểm này thì “khách quan” có nghĩa đối với cái gì? Chúng ta có thể sử dụng chuẩn mực gì để đo mức độ của nó? Rõ ràng là không có “siêu-chuẩn mực” nào có thể tồn tại để so sánh toàn bộ thang bậc giá trị, vốn là thứ bản thân nó được dẫn xuất chẳng từ một tập hợp niềm tin nào, chẳng từ một nền văn hóa nào. Tất cả những thử nghiệm như thế phải mang tính nội tại, giống như luật lệ của một nhà nước chỉ áp dụng riêng cho các công dân của nó. Vụ kiện chống lại ý niệm về tính khách quan lịch sử giống như vụ kiện chống lại luật pháp quốc tế hay đạo đức quốc tế: nó không tồn tại. Hơn thế nữa, chính ý niệm này là vô nghĩa, bởi vì những chuẩn mực tối hậu là thứ chúng ta đo lường sự vật bằng chúng, và từ bản thân định nghĩa chúng không thể bị đo lường dưới dạng thức của bất cứ cái gì khác. 

Chuyện này quả thật là gậy ông đập lưng ông. Vì rằng tất cả các chuẩn mực đều bị tuyên bố là tương đối, nên chê trách về tính thiên vị hay dạy đời trong lịch sử, và bảo vệ chúng, hóa ra tự thân những việc này cũng là bày tỏ những thái độ không thể được bảo vệ hay lên án một cách hợp lí vì thiếu một siêu-chuẩn mực. Tất cả mọi thái độ hóa ra đều phải là trung lập về đạo đức; thế nhưng ngay cả bản thân điều này cũng không thể phát biểu ra được, vì rằng điều ngược lại với tuyên ngôn này cũng không thể bác bỏ. Vậy là chẳng có gì về tài này có thể phát biểu được hết. Chắc chắn đây là một phép diễn dịch đưa đến sự phi lí (reductio ad absurdum) về toàn bộ lập trường. Sai lầm đây tai họa phải ẩn giấu ở đâu đó trong luận cứ của trường phái chống lại răn dạy đạo đức.101

Chúng ta hãy thử xem xét những suy nghĩ bình thường của những người bình thường về đề tài này. Trong những hoàn cảnh bình thường, chúng ta không cảm thấy mình nói ra điều gì đó nguy hiểm hay khả nghi, nếu chúng ta đánh giá giá trị nghệ thuật quản lí nhà nước của Cromwell, hay nếu chúng ta miêu tả Pasteur như một người làm việc thiện cho loài người hay chê trách các hành động của Hitler. Chúng ta cũng không cảm thấy mình đang nói ra điều gì đó kì quặc, nếu chẳng hạn chúng ta xác nhận rằng, Belloc hay Macaulay có vẻ như không áp dụng cùng một chuẩn mực về sự thật khách quan, hay là áp dụng những chuẩn mực ấy không được vô tư như là Ranke, hay Creighton, hay Elie Halévy102 chẳng hạn. Chúng ta đang làm chuyện gì trong khi nói ra những điều ấy? Chẳng phải chúng ta đơn thuần đang nói rằng chúng ta đồng ý với những kết luận của Ranke hay với giọng điệu chung của Halévy, rằng những thứ đó hợp với sở thích của chúng ta hơn, làm chúng ta hài lòng hơn (do nhãn quan và tính khí của riêng chúng ta) so với giọng điệu và những kết luận của Macaulay hay Belloc? Nếu có một vẻ trách móc rõ ràng trong đánh giá của chúng ta, chẳng hạn như đối với những chính sách của Cromwell hay tường thuật của Belloc về những chính sách ấy, thì điều đó cũng không có gì hơn là một chỉ dẫn cho thấy chúng ta không thiện cảm với người này hay người kia trong họ, những lí tưởng đạo đức hay trí tuệ của chúng ta khác với những lí tưởng mà chúng ta cho là của họ, không có chỉ dẫn nói lên rằng chúng ta cho là họ đã có thể, hay thậm chí họ nên hành động khác đi, chẳng phải thế hay sao? Và nếu quả thật chúng ta có ngụ ý rằng hành vi của họ đã có thể, hay nên là khác đi, thì đó chỉ đơn thuần là triệu chứng bệnh của tình trạng thiếu khả năng tâm lí của chúng ta để nhận ra rằng họ đã không thể (vì không có chuyện đang không thể) hành động khác đi được, chẳng phải thế hay sao? Với ngụ ý tiếp theo cho rằng hẳn là vãn minh hơn nếu không nói ra những điều như thế, mà phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều bị lừa dối như nhau, hay hầu như là như nhau, và cũng phải nhớ thêm rằng trách nhiệm đạo đức là một huyền thoại tiền khoa học, rằng cùng với sự gia tăng tri thức và sử dụng thật kĩ càng và thích hợp hơn ngôn ngữ “cáo buộc về giá trị” cũng như những ý kiến trá ngụy về tự do của con người mà ngôn ngữ cáo buộc dựa vào đó, [nếu được như vậy] thì có thể hi vọng trách nhiệm đạo đức sẽ biến mất khỏi từ vựng của những con người được khai sáng, ít nhất cũng trong những phát biểu công cộng, chẳng phải thế hay sao? Bởi vì tôi thấy hình như điều này suy ra trực tiếp từ những học thuyết được phác họa ở trên. Tất định luận, dù là từ tâm hay ác tâm, cũng không ít hơn quan điểm cho rằng những phán xét đạo đức của chúng ta trở thành phi lí hoặc là vì chúng ta biết quá nhiều, hoặc là vì chúng ta biết quá ít, [tất cả những thứ đó] đều dẫn đến điều này. Đây là một quan điểm trong những hình thức khác nhau của nó vốn đã được giữ bởi nhiều nhà tư tưởng văn minh và mẫn cảm, đặc biệt là vào thời nay. Mặc dù vậy, nó dựa trên những niềm tin về thế giới và về những con người mà chúng ta thật khó chấp nhận; những niềm tin ấy là không khả tín vì chúng làm cho những phân biệt cơ bản mà tất cả chúng ta đều rút ra - những phân biệt tất yếu được phản ánh trong sử dụng ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta, [những phân biệt ấy] trở thành bất hợp pháp. Nếu giả sử những niềm tin ấy là chân lí, hẳn sẽ có quá nhiều thứ chúng ta chấp nhận không tra vấn, hóa ra lại là cảm nhận trá ngụy. Những nghịch lí ấy vẫn được thúc ép thuyết phục chúng ta, mặc dù không có bằng chứng mạnh mẽ nào hay luận cứ logic nào bắt chúng ta phải tiếp thu chúng.

Một phần của chính cái khuynh hướng ấy là xác nhận rằng, ngay cả nếu như không hi vọng thoát hoàn toàn khỏi việc răn dạy đạo đức ở thế giới này đi nữa (vì tất cả mọi người đều tất yếu sống và suy nghĩ bằng những chuẩn mực riêng khác nhau về đạo đức hay thẩm mĩ hay tôn giáo), thì trong việc viết sử cũng cần phải cố gắng dập đi những khuynh hướng đó. Trong tư cách những nhà sử học, nghĩa vụ của chúng ta chỉ là miêu tả và giải thích, chứ không phải là tuyên án. Chúng ta được bảo rằng nhà sử học không phải là quan tòa mà là cảnh sát điều tra; nhà sử học cung cấp bằng chứng, và độc giả, vốn không có trách nhiệm chuyên môn của một chuyên gia, có thể tùy thích đưa ra những ket luận đạo đức của mình. Như một lời cảnh báo chung chống lại việc biến lịch sử thành răn dạy đạo đức, điều này khá là đúng lúc, nhất là vào những thời buổi cảm xúc thiên vị phe phái đang gay gắt. Thế nhưng không được diễn giải điều này theo nghĩa đen. Vì nó trông cậy vào một sự tương đồng trá ngụy với một vài môn khoa học tự nhiên chính xác hơn. Trong những môn khoa học này tính khách quan mang ý nghĩa đặc thù. Có nghĩa là những phương pháp và tiêu chuẩn thuộc loại được định nghĩa chính xác ít hay nhiều, [những thứ đó] phải được sử dụng hết sức thận trọng; tức là bằng chứng, những luận cứ, những kết luận đều được diễn đạt trong thuật ngữ đặc thù được tạo ra hay được sử dụng nhằm mục đích chuyên biệt của mỗi môn khoa học, và không có (hay hầu như không có) sự xâm nhập nào của những xem xét hay những khái niệm hay những phạm trù không liên quan, tức là những thứ phải bị loại ra một cách riêng biệt bởi những chuẩn tắc của môn khoa học được đề cập tới.

Tôi không dám chắc môn lịch sử có thể được gọi hữu ích là môn khoa học hay không, nhưng chắc chắn đây không phải là môn khoa học theo nghĩa đó. Vì nó sử dụng ít, nếu như có chút nào, những khái niệm hay những phạm trù đặc biệt riêng cho bản thân nó. Những toan tính tạo ra mạng lưới đặc thù của các khái niệm và kĩ năng chuyên biệt dành riêng cho môn lịch sử103 đã được chứng tỏ là vô bổ, vì chúng hoặc là miêu tả sai - sơ đồ hóa quá đáng - trải nghiệm của chúng ta, hoặc là cảm thấy chúng không cung cấp được những giải đáp cho các câu hỏi của chúng ta. Chúng ta có thể kết tội các nhà sử học về sự thiên vị, hay thiếu chính xác, hay ngớ ngẩn, hay thiếu trưng thực, giống như chúng ta có thể kết tội lẫn nhau về những thói xấu ấy trong giao tiếp bình thường của chúng ta; và chúng ta có thể ca ngợi họ vì những đức hạnh tương ứng; và thường là cũng với cùng một mức độ công bằng và hợp lẽ. Thế nhưng cũng đúng như ngôn ngữ bình thường của chúng ta sẽ trở nên bị bóp méo ghê gớm bởi một nỗ lực có ý thức loại bỏ đi thành tố cơ bản nào đó - chẳng hạn như loại bỏ bất cứ thứ gì chịu trách nhiệm xa xôi đến truyền tải các phán xét giá trị, những thái độ bình thường khó nhận ra được về đạo đức và tâm lí - và chính vì điều này không bị xem là thiết yếu để gìn giữ đôi chút bình thường về tính khách quan, không thiên vị và chính xác mà chúng ta nên coi trọng, cho nên, cũng vì lí do này, không cần phải có sự chữa trị căn bản nào để gìn giữ đôi chút vừa phải những phẩm chất đó trong việc viết sử. Có một ý nghĩa nhất định trong đó một nhà vật lí có thể ở mức độ cao nói năng với tiếng nói khác nhau trong tư cách nhà vật lí và trong tư cách con người; mặc dù ngay cả ở đây cũng không có ranh giới rõ ràng và tuyệt đối giữa hai từ vựng ngôn ngữ. Có thể rằng điều này cũng đúng ở mức độ nào đó đối với các nhà kinh tế học hay tâm lí học. Nó nhanh chóng trở nên không còn đúng bao nhiêu nữa, khi chúng ta bỏ lại môn toán học ở phía sau, ví dụ như môn cổ tự học, hay lịch sử khoa học, hay nghe buôn bán len; và chuyện trở nên nguy hiểm hay gần như phi lí, khi đòi hỏi điều đó ở các nhà sử học về xã hội hay chính trị, dù cho các kĩ năng thích đáng có khéo léo đến đâu, dù có chuyên nghiệp đến đâu, dù có nghiêm ngặt đến đâu. Môn lịch sử không đồng nhất với văn chương tưởng tượng, nhưng nó chắc chắn không thoát khỏi những gì mà trong môn khoa học tự nhiên ắt phải bị lên án một cách đúng lẽ như mang tính chủ quan không biện bạch được, hay thậm chí là mang tính trực cảm theo nghĩa thường nghiệm của thuật ngữ. Ngoại trừ dựa trên giả định cho rằng môn lịch sử phải xử lí với những con người như là với những đối tượng vật chất ở trong không gian - nói vắn tắt là phải như nhà nghiên cứu hành vi luận - thì phương pháp của môn lịch sử cũng khó mà có thể đồng nhất được với những chuẩn mực của một môn khoa học chính xác104. Tôi thấy hình như sự cầu khẩn các nhà sử học dập đi ngay cả mức độ tối thiểu của sự thấu hiểu và đánh giá về đạo đức và tâm lí liên quan đến việc xem con người như những sinh linh có những mục đích và động cơ (chứ không phải đơn thuần là những yếu tố nhân quả trong quá trình của các sự kiện), [sự cầu khẩn ấy] nảy sinh từ sự nhầm lẫn về mục đích và phương pháp của những nghiên cứu về con người với những mục đích và phương pháp của khoa học tự nhiên. Môn lịch sử thuần túy miêu tả, hoàn toàn không có nhân vật, vẫn là một điều tưởng tượng của lí thuyết trừu tượng, một phản ứng bị thổi phồng đối với thói đạo đức giả và tính phù phiếm của những thế hệ trước.
 

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng