Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 1: Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ 20 (Phần 3)

Thế nhưng đối với một người quan sát hời hợt về chính trị và tư tưởng của thế kỉ 20, thì thoạt nhìn có vẻ như mỗi ý tưởng và mỗi phong trào điển hình của thời đại hiện nay được hiểu rõ nhất như là phát triển tự nhiên của các khuynh hướng đã nổi bật trong thế kỉ 19. Ví dụ như trong trường hợp gia tăng các định chế quốc tế thì có vẻ như đó là chuyện hiển nhiên. Tòa án Hague, Hội Quốc liên trước đây và tổ chức kế thừa hiện đại của nó, vô số những cơ quan quốc tế trước và sau chiến tranh và các hiệp định nhằm các mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội và nhân đạo, [tất cả những thứ ấy] là gì, nếu không phải là hậu thân trực tiếp của cái chủ nghĩa quốc tế tự do - cái “Nghị viện con người”14 của Tennyson - vốn là đề tài chính của mọi tư tưởng và hành động tiến bộ trong thế kỉ 19 và thực ra phần nhiều còn ở thế kỉ trước đó nữa? Ngôn ngữ của những nhà sáng lập chủ nghĩa tự do châu Âu - ví dụ như Condorcet hay Helvétius - không khác biệt nhiều lắm về thực chất, hay cả về hình thức nữa, với những điểm đặc trưng nhất trong các diễn từ của Woodrow Wilson15 hay Thomas Masaryk16. Chủ nghĩa tự do châu Âu mang dáng vẻ của một phong trào đơn nhất chặt chẽ, ít đổi thay trong suốt hầu như ba thế kỉ, dựa trên những nền tảng trí tuệ tương đối đơn giản, được tạo ra bởi Locke hay Grotius17 hay ngay cả Spinoza nữa; vươn dài ra ngược về thời gian trước đến tận Erasmus và Montaigne, phong trào Phục hưng Italia, Seneca18 và những người Hi Lạp. Trong phong trào này về nguyên tắc có một lời giải đáp duy lí cho mỗi câu hỏi. Con người, ít nhất cũng về nguyên tắc, ở bất cứ nơi nào và trong mọi điều kiện đều có khả năng khám phá và áp dụng những lời giải đáp duy lí cho các vấn đề của anh ta, nếu anh ta muốn điều đó. Và những lời giải đáp ấy, vì chúng là duy lí nên không thể xung đột với nhau và sẽ tạo thành một hệ thống hài hòa tối hậu mà ở đó chân lí sẽ thắng thế, rồi tự do, hạnh phúc và cơ hội vô giới hạn cho tự phát triển không bị ngăn trở, sẽ mở ra cho tất cả mọi người.

Ý thức về lịch sử, trưởng thành hơn trong thế kỉ 19, đã điều chỉnh thiết kế khắc nghiệt và đơn giản của lí thuyết cổ điển như nó được quan niệm trong thế kỉ 18. Tiến bộ của con người nay được nhìn nhận phải bị điều kiện hóa bởi những nhân tố có độ phức tạp nhiều hơn so với [những nhân tố] đã được quan niệm vào thời kì phôi thai của chủ nghĩa cá nhân tự do: giáo dục, tuyên truyền theo chủ nghĩa duy lí, ngay cả luật pháp cũng không phải mọi lúc mọi nơi đều hoàn toàn là đủ. Những nhân tố, như là những ảnh hưởng đặc thù đã hình thành các xã hội đa dạng trong lịch sử - một số do các điều kiện vật chất, một số khác do những sức mạnh kinh tế-xã hội hay các nhân tố cảm xúc khó nắm bắt, [những nhân tố ấy] được xếp loại một cách mơ hồ như những yếu tố “văn hóa” - ngày nay được cho phép có một tầm quan trọng nhiều hơn là sơ đồ quá giản lược của Condorcet hay Bentham. Bây giờ người ta cho rằng giáo dục và tất cả các hình thức tác động xã hội phải ướm thử cho vừa, tính đến các nhu cầu lịch sử đã khiến cho những con người và những định chế của họ trở thành một thứ gỉ đó không dễ để nhào nặn theo khuôn mẫu được đòi hỏi, như trước đây, vào những thời buổi còn ngây thơ hơn, người ta vẫn lầm tưởng một cách quá lạc quan.

Mặc dù vậy, cương lĩnh nguyên thủy vẫn tiếp tục trong những hình thức đa dạng của nó với sức quyến rũ hầu như phổ quát. Điều này đúng cho phe hữu không kém so với phe tả. Các nhà tư tưởng bảo thủ, trừ phi chỉ quan tâm đến việc gây cản trở cho những người theo khuynh hướng tự do và các đồng minh của họ, cũng đã tin tưởng và hành động với niềm tin rằng, nếu không có bạo lực quá đáng làm chậm lại mà chỉ có những quá trình nhất định của phát triển “tự nhiên”, thì mọi thứ hẳn đã có thể tốt đẹp; kẻ đi nhanh phải được hạn chế để đừng đẩy kẻ đi chậm hơn sang một bên và bằng cách đó thì tất cả đều sẽ đi tới đích. Đấy là học thuyết mà Bonald19 thuyết giảng trước đây và nó biểu lộ niềm lạc quan ngay cả ở những người tin tưởng kiên định nhất vào tội lỗi nguyên thủy. Miễn là những khác biệt truyền thống của cách nhìn và của cấu trúc xã hội, được bảo hộ khỏi những thứ mà các nhà bảo thủ ưa thích mô tả như các quá trình cào bằng “thiếu óc tưởng tượng”, “nhân tạo”, “cơ giới” vốn được các nhà thuyết giảng tự do ủng hộ; miễn là sự bất tận của những ưu điểm xuất chúng “vô hình” hay “mang tính lịch sử” hay “tự nhiên” hay “đúng lúc” (là những thứ mà họ cảm thấy cấu thành bản chất của những hình thức thành đạt của cuộc sống) được giữ cho không bị biến thành một tập hợp đồng phục của những phần tử đồng chất đi nhịp bước theo lệnh của thứ quyền uy nào đó “không thích đáng” hay “đến từ bên ngoài”, coi thường hướng dẫn của những điều tốt và tập quán truyền thống; miễn là thiết lập được sự bảo vệ đầy đủ chống lại việc chà đạp liều lĩnh lên quá khứ thiêng liêng - với những đảm bảo ấy thì các cải cách và đổi thay duy lí được thừa nhận là khả thi và thậm chí đáng mong muốn. Có được những bảo vệ ấy thì các nhà bảo thủ cũng sẵn sàng nhìn vào việc hướng dẫn có ý thức cho các hoạt động của con người bởi các chuyên gia có đủ khả năng với sự tán thành ở mức độ cao; và không chỉ bởi các chuyên gia mà còn bởi các cá nhân và các nhóm người ngày càng nhiều len, xuất thân từ các bộ phận xã hội ngày càng rộng rãi hơn và đại diện cho các bộ phận ấy, là những bộ phận ngày càng trở nên được khai minh nhiều hơn lên một cách tiến bộ.

Đây là một tâm thế và thái độ phổ biến cho một bộ phận ý kiến vào nửa sau của thế kỉ 19 ở châu Âu, và không chỉ ở phương Tây mà ở cả phương Đông nữa, bộ phận ấy rộng lớn hơn khuôn khổ cho phép của các sử gia chịu tác động thực tế của những cuộc đấu tranh chính trị vào thời kì sớm hơn hay muộn hơn. Một trong những kết quả của chuyện này - trong chừng mực đó là một yếu tố nhân quả chứ không chỉ là một biểu hiện của quá trình - là phát triển rộng rãi việc đại diện chính trị ở phương Tây, nhờ đó mà cuối cùng thì tất cả các giai cấp trong dân chúng ở thế kỉ kế tiếp đều đạt được quyền lực, sớm hay muộn, ở nước này hay nước kia. Thế kỉ 19 đầy rẫy những nhóm người không có đại diện, mắc bận trong cuộc tranh đấu cho đời sống, cho tự thể hiện, và sau này là cho việc kiểm soát. Thành viên của những nhóm người ấy bao gồm những vị anh hùng, những người tuẫn đạo và những người có sức mạnh đạo đức và nghệ thuật; cuộc tranh đấu đích thực thuộc loại này đã sinh ra họ. Thế kỉ 20, bằng việc thỏa mãn thật nhiều cơn đói khát xã hội và chính trị của thời kì Victoria, quả thực đã là chứng nhân cho việc cải thiện đầy ấn tượng điều kiện vật chất của số đông dân chúng Tây Âu, nhờ vào biến đổi trật tự xã hội do việc xây dựng luật pháp xã hội thật mạnh mẽ.

Thế nhưng một trong những kết quả ít ngờ tới của chiều hướng này (mặc dù những nhà tư tưởng đơn độc, như Tocqueville, Burckhardt20, Herzen và tất nhiên là Nietzsche nữa, đã có được nhiều hơn là một ý niệm mơ hồ về nó) đó là tình trạng sa sút chất lượng của xúc cảm và sức mạnh đạo đức và của tính nổi loạn đầy lãng mạn mang chất nghệ sĩ, là những thứ đã tạo dấu ấn cho những cuộc tranh đấu thời trước đó của những nhóm xã hội bất mãn trong thời kì anh hùng của họ, khi mà họ, dù bất đồng với nhau sâu sắc, vẫn sát cánh bên nhau tranh đấu chống lại các bạo chúa, đám tăng lữ và bọn phàm tục vô học có vũ trang. Dù cho các bất công và nỗi thống khổ thời đại hiện nay có như thế nào - và chúng thì đầy rẫy chẳng chút nào ít hơn những thời quá khứ mới đây - nhưng có vẻ như chúng không được biểu lộ trong những chứng tích hùng biện đầy cao quý, bởi cái loại cảm hứng như thế hình như chỉ sinh ra từ sự áp bức hay đàn áp đối với toàn bộ các giai cấp trong xã hội21. Đây là thời điểm ngắn ngủi, như Marx quả đã rất sáng suốt chỉ ra, khi mà những lãnh tụ của nhóm xã hội giác ngộ nhất và phát triển nhất về mặt xã hội và kinh tế trong những nhóm xã hội bị đàn áp, được nâng lên cao bởi tâm thế chung và trong giây lát phát ngôn không chỉ cho riêng giai cấp của mình hay môi trường của mình, mà còn nhân danh tất cả những người bị áp bức; trong giây lát ngắn ngủi phát biểu của họ có phẩm tính phổ quát.

Thế nhưng ở trong tình huống mà tất cả hay gần như tất cả các bộ phận đông người của xã hội đã có được sở hữu quyền lực hình thức, hay ở thời điểm dù thế nào đi nữa cũng đang sắp có được, thì sẽ chẳng dễ dàng để hùng biện thực sự vô tư - vô tư một phần ít nhất cũng vì chuyện thực hiện còn xa xôi, vì những nguyên lí thì chói sáng mạnh mẽ nhất ở trong bóng tối và khoảng không, vì cái nhìn nội tâm hãy còn trong sáng, chưa có những lầm lẫn, những thỏa hiệp và những nét phác họa lờ mờ của thế giới ngoại tại, mà những khởi đầu của hành động thực tiễn không tránh khỏi có tác động tới nó. Không nhóm người nào đã từng nếm mùi quyền lực, hay còn chút xíu nữa là được nếm, lại thoát khỏi thói vô liêm sỉ ở mức độ nào đó, thói vô liêm sỉ như một phản ứng hóa học được phát động bởi tiếp xúc đột ngột giữa ý tưởng thuần túy được nuôi dưỡng ở nơi hoang mạc, và việc thực hiện nó trong một hình thức nào đó không được đoán trước, là hình thức hiếm khi phù hợp với những niềm hi vọng hay những nỗi e ngại của những thời trước đây. Cần phải có một nỗ lực xuất chúng của trí tưởng tượng để loại bỏ bối cảnh của những năm sau đó, để ném mình trở lại thời kì đã khá lâu rồi, kể từ lúc sức hấp dẫn trước đó đã từng thắng lợi rồi lại bị mất đi, để cho những quan điểm và phong trào vẫn hãy còn khả năng kích thích hết sức mãnh liệt những cảm xúc đầy lí tưởng: ví dụ như khi mà chủ nghĩa dân tộc về nguyên tắc còn chưa cảm thấy mình bất tương thích với chủ nghĩa quốc tế đang ở mức độ gia tăng, hay các quyền tự do dân sự - [bất tương thích] với tổ chức xã hội theo cách duy lí; khi một số các nhà bảo thủ còn tin tưởng vào điều này hầu như cũng nhiều như những đối thủ của họ, và khoảng cách giữa những người ôn hòa ở cả hai phía chỉ là giữa lời biện bạch rằng lí trí không được phép gia tăng nhịp độ tiến bộ vượt quá giới hạn mà “lịch sử” áp đặt, với lời phản bác lại rằng lí trí bao giờ cũng có lí22, rằng kí ức và hình bóng ít quan trọng hơn so với tri giác thế giới hiện thực trong ánh sáng ban ngày. Đấy là thời kì, khi mà những người thuyết giảng tự do về phần mình đã bắt đầu cảm thấy tác động của lịch sử luận (historicism), và thừa nhận ở mức độ nào đó sự cần thiết phải điều chỉnh và thậm chí kiểm soát đời sống xã hội, có thể là bởi chính cái nhà nước mà họ căm ghét, giá mà nó làm giảm nhẹ đi tính vônhân đạo của các hoạt động kinh doanh tư hữu không bị kiềm chế, giá mà nó bảo hộ cho quyền tự do của những kẻ yếu thế, giá mà nó bảo vệ những quyền cơ bản của con người mà thiếu những quyền ấy thì chẳng thể có được cả hạnh phúc lẫn công bằng, tự do để mà theo đuổi, là những thứ khiến cho cuộc đời đáng sống.

Cơ sở triết học của những niềm tin tự do chủ nghĩa ấy vào giữa thế kỉ 19 là thứ gì đó khá tăm tối. Các quyền được mô tả như “tự nhiên” hay “vốn có”, các chuẩn mực tuyệt đối của chân lí và công bằng không tương thích được với chủ nghĩa lãnh nghiệm mang tính ướm thử và chủ nghĩa công lợi; thế nhưng các nhà tự do chủ nghĩa vẫn tin vào cả hai. Cả niềm tin vào nền dân chủ đầy đủ cũng không tương thích hoàn toàn được với niềm tin vào những quyền bất khả vi phạm của những nhóm thiểu số hay của các cá nhân bất đồng chính kiến. Thế nhưng chừng nào mà cánh hữu đối lập còn tự đặt mình chống lại tất cả những nguyên lí ấy, thì những mâu thuẫn về toàn cục có thể được để cho ngủ yên, hay làm thành đề tài của những cuộc tranh cãi hàn lâm một cách hòa bình, không bị làm cho trầm trọng thêm bởi nhu cầu cấp bách phải áp dụng ngay lập tức. Thật ra chính việc thừa nhận những bất nhất trong học thuyết hay trong chính sách đã gia tăng vai trò của phê phán duy lí, nhờ đó rốt cuộc thì tất cả mọi vấn đề rồi một ngày nào đó cũng có thể và ắt sẽ được giải quyết. Các nhà xã hội chủ nghĩa về phần mình, cũng giống như các nhà bảo thủ trong việc tin vào hiện hữu những định luật không thể lay chuyển của lịch sử, và cũng giống như họ, lên án những người thuyết giảng tự do về việc xây dựng pháp luật một cách “phi lịch sử” vì những trừu tượng hóa phi thời gian - một hoạtđộng mà lịch sử nhất định sẽ phải trả thù thích đáng. Thế nhưng họ cũng giống như những người thuyết giảng tự do trong việc tin vào giá trị cao nhất của phân tích duy lí, tin vào những chính sách dựa trên những xem xét lí thuyết diễn dịch từ những tiền đề “khoa học”, và cùng với họ lên án những nhà bảo thủ về việc diễn giải không đúng các sự kiện” để biện minh cho việc phục hồi nguyên trạng thảm hại, về việc bỏ qua nỗi thống khổ và bất công; [những nhà bảo thủ] quả thực không giống như những người thuyết giảng tự do xem thường lịch sử, nhưng họ lại đọc sai lịch sử theo tính toán cố ý hay vô tình, để duy trì quyền lực của bản thân dựa trên cơ sở đạo đức tưởng chừng như đúng đắn. Song có một hiện tượng mang tính cách mạng đích thực, như một số người trong họ là như thế, và hết sức mới mẻ trong thế giới phương Tây: đa số họ cùng chia sẻ với những đảng phái mà họ công kích, một giả định chung rằng: người ta phải được nói cho biết và phải được kêu gọi về các nhu cầu và các quyền lợi và các lí tưởng; người ta ắt có ý thức về chúng, hay có thể được làm cho trở nên có ý thức về chúng.

Những nhà bảo thủ, những người thuyết giảng tự do, những nhà cấp tiến, những người xã hội chủ nghĩa, khác biệt nhau trong việc họ diễn giải về thay đổi lịch sử. Họ bất đồng với nhau về việc những nhu cầu, những lợi ích, những lí tưởng sâu sắc nhất của con người là gì, về việc ai giữ chúng, và sâu sắc đến đâu, hay rộng đến đâu, hay kéo dài được bao lâu, về phương pháp phát hiện ra chúng, về giá trị của chúng trong tình huống này hay tình huống khác. Họ khác biệt nhau về các sự kiện, họ khác biệt nhau về các mục đích và các biện pháp, họ tự cảm thấy chẳng thỏa thuận được với nhau mộtđiều gì. Thế nhưng cái chung mà họ có - quá hiển nhiên để mà họ tự ý thức được - là niềm tin rằng thời đại của họ đã bị đè nén với những vấn đề xã hội và chính trị mà chúng chỉ có thể được giải quyết bằng cách áp dụng có ý thức các chân lí mà tất cả những người được phú cho có sức mạnh tinh thần đầy đủ có thể đồng ý với nhau. Những người theo chủ nghĩa Marx thực ra đặt câu hỏi về điều này trên lí thuyết, nhưng không phải trong thực tế: thậm chí họ không công kích nghiêm chỉnh luận đề cho rằng một khi các mục đích còn chưa đạt được và lựa chọn các phương tiện bị giới hạn, thì cách thức thích đáng để cho phương tiện thích nghi với các mục đích là sử dụng mọi tài khéo léo và năng lực cũng như mọi thấu hiểu trí tuệ và đạo đức có thể có được. Trong khi một số người xem những vấn đề ấy như có quan hệ gần gũi với các vấn đề của các khoa học tự nhiên, một số người xem là chúng gần gũi với các vấn đề của đạo đức học hay tôn giáo, những người khác giả định rằng những vấn đề ấy hoàn toàn thuộc chủng loại riêng (sui generis) và đòi hỏi hoàn toàn những lời giải duy nhất, thì họ vẫn đồng ý với nhau - có vẻ như quá hiển nhiên để cần phải khẳng định - rằng bản thân các vấn đề là đích thực và cấp bách và ít nhiều dễ hiểu trong những dạng thức tương tự đối với mọi con người có đầu óc sáng suốt, rằng tất cả các lời giải đáp đều là để cho người nghe [hiểu được], rằng sẽ chẳng đạt được điều gì nếu cứ ngu tối hay cứ giả định là các vấn đề chẳng hề hiện hữu.

Tập hợp những giả định này - chúng là một phần ý nghĩa bao hàm trong từ ngữ “Khai minh” - tất nhiên là mang tính duy lí thật sâu sắc. Chúng bị phủ nhận một cách ngầm ẩn bởi toàn bộ phong tràolãng mạn, và tường minh bởi các nhà tư tưởng riêng lẻ - Carlyle, Dostoevsky, Baudelaire, Schopenhauer, Nietzsche. Có những nhà tiên tri ít người biết đến - Buchner, Kierkegaard, Leontev23 - đã phản kháng lại thuyết chính thống đang thịnh hành với một sự sâu sắc và tính độc đáo mà chỉ mãi tới bây giờ mới trở nên sáng tỏ. Không phải những nhà tư tưởng ấy biểu thị một phong trào đơn lẻ nào, hay thậm chí một “chiều hướng” dễ nhận diện; mà trong một chi tiết thích hợp họ đã để lộ ra tính chất lôi cuốn. Họ phủ nhận tầm quan trọng của hành động chính trị dựa trên những xem xét duy lí, và trong phạm vi ấy họ bị căm ghét hợp lẽ bởi những ngườỉ ủng hộ cho chủ nghĩa bảo thủ khả kính. Họ đã nói hay đã hàm ý rằng, chủ nghĩa duy lí dưới bất cứ hình thức nào là điều lầm tưởng được tạo ra từ một phân tích sai trái về đặc tính của con người, bởi ngọn nguồn hành động của con người nằm ở lĩnh vực, mà các nhà tư tưởng nghiêm túc, với quan điểm có nhiều uy tín trong một công chúng trịnh trọng, không thể suy tưởng được. Thế nhưng tiếng nói của họ là ít ỏi và khó nghe, và những quan điểm kì quặc của họ bị quy cho những khuyết tật về tâm lí. Những người thuyết giảng tự do, dù họ có ngưỡng mộ thiên tài nghệ thuật của những người ấy đến đâu đi nữa, phân nộ vì điều mà họ cho là một quan điểm xuyên tạc về loài người, và hoặc là họ coi thường quan điểm ấy, hoặc là họ bác bỏ nó một cách bạo lực. Các nhà bảo thủ xem những người ấy như những đồng minh chống lại chủ nghĩa duy lí bị thổi phồng và chủ nghĩa lạc quan gây giận dữ của cả những người thuyết giảng tự do lẫn những người xã hội chủ nghĩa, nhưng đối xử với những người ấy thật căng thẳng như với những con người kì cục hão huyền, đầu óc hơi bị xáo trộn, không nên bắt chước hay có quan hệ quá gần gũi. Những người xã hội chủ nghĩa xem những người ấy như bọn phản động khá loạn trí, không đáng phí đạn để bắn bỏ. Những dòng chủ lưu của cả phe hữu và phe tả chảy vòng quanh mấy tảng đá cô lập bất động ấy với vẻ ngu ngốc của chúng, [những tảng đá] dường như đang cố tìm cách làm ngừng lại hay làm chệch hướng dòng chảy trung tâm. Xét cho cùng thì những người ấy là thế nào, phải chăng chỉ là những kẻ sống sót của một thời đại tăm tối, hay là những kẻ lạc lõng thú vị, buồn bã và đôi khi là những nạn nhân đầy quyến rũ của vận động tiến lên của lịch sử, đáng thấu hiểu với thái độ cảm thông - những con người tài năng hay thậm chí thiên tài không gặp thời, những thi sĩ bẩm sinh, các nghệ sĩ xuất sắc, nhưng chắc chắn không phải là những nhà tư tưởng đáng để cho những người nghiên cứu đời sống xã hội và chính trị phải chú ý thật chi tiết?

Có một cái gì đó (đáng phải nhắc lại một lần nữa) như thành tố vô liêm sỉ có thể lờ mờ nhận ra được ngay từ khởi đầu của chủ nghĩa Marx - một hệ thống phần nhiều mang tính duy lí cao - có vẻ như thù địch với toàn bộ cách nhìn này, [thành tố ấy] phủ nhận vị trí hàng đầu của lí trí cá nhân trong việc lựa chọn các mục đích cũng như trong việc cai trị hiệu quả. Thế nhưng thái độ sùng bái các khoa học tự nhiên như mô hình duy nhất thích đang cho lí thuyết chính trị và hành động mà chủ nghĩa Marx chia sẻ với những người theo thuyết tự do – đối thủ của nó, không tạo thuận lợi cho việc nhận thức rõ ràng bản chất đầy đủ của chính chủ nghĩa Marx; cho nên phương diện này của chủ nghĩa Marx lắng xuống không được nhận ra rộng rãi cho đến khi Sorel24 đưa nó vào cuộc sống và kết hợp nó với chủ nghĩa phản-duy lí của Bergson25, sự kết hợp ấy tô đậm màu sắc cho tư tưởng của ông ta và cho đến khi Lenin lấy nguồn gốc từ một truyền thống khác biệt, với thiên tài tổ chức của mình, thừa nhận thấu hiểu cao nhất về nó theo cách phân nửa là bản năng, biến nó thành nảy sinh phi lí tính của hành vi con người và đưa nó vào thực hành thật hiệu quả. Tuy nhiên, có vẻ như Lenin đã không ý thức được, và những kẻ đi theo ông cho đến nay cũng thế, về mức độ mà yếu tố có bản chất lãng mạn này trong chủ nghĩa Marx đã ảnh hưởng một cách tự nhiên lên các hành động của họ. Hoặc giả là nếu họ ý thức được thì họ cũng đã và đang không thừa nhận điều này. Tình trạng là như vậy khi thế kỉ 20 mở ra.

Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc

Dịch giả:
Nguyễn Văn Trọng