Tất định luận và tự do lựa chọn - Chương 2: Tính tất yếu của lịch sử (Phần 3)
Kiến nghị cho rằng mọi thứ chúng ta làm và chịu đau khổ đều là bộ phận của một khuôn mẫu cố định - rằng người quan sát cửa Laplace85 (nếu được cung cấp tri thức đầy đủ về các sự kiện và các định luật) có thể miêu tả đúng mọi biến cố quá khứ và tương lai ở bất cứ thời điểm lịch sử nào, bao gồm cả những thứ thuộc cuộc sống “nội tâm”, tức là những ý nghĩ, cảm giác, hành động của con người - [kiến nghị này] thường vẫn được ấp ủ, và mọi ẩn ý khác nhau đều được lấy ra từ đó; niềm tin vào tính chân lí của nó đã làm sững sờ một số người này và đã cổ vũ cho một số người khác. Tất định luận có thể là đúng hay không, hay thậm chí có mạch lạc hay không, nhưng bất kể thế nào, thì hình như rõ ràng là việc chấp nhận nó thực ra không tác động đến những suy nghĩ bình thường của đa số mọi người, bao gồm cả các nhà sử học, thậm chí ngay cả những nhà khoa học tự nhiên ở bên ngoài phòng thí nghiệm. Vì nếu giả sử nó đã có tác động, thì ngôn ngữ các tín đồ của nó hẳn đã phản ánh điều này và sẽ khác biệt với ngôn ngữ của phần còn lại trong chúng ta.
Có một loại từ ngữ mà chúng ta thường xuyên sử dụng (chắc là không thể thiếu chúng), đại loại như “Anh lẽ ra không được [hay không cần phải] làm chuyện này”; “Chẳng lẽ anh cần phải phạm cái lỗi lầm kinh khủng này hay sao?”; “Lẽ ra tôi có thể làm điều này, nhưng tôi thấy không làm thì hơn”; “Tại sao vị Vua của Ruritania lại thoái vị? Ấy là vì ông ta thiếu sức mạnh ý chí để kháng cự lại, [ông ta] không giống như vị Vua của Abyssinia”; “Lẽ nào vị Tổng tư lệnh lại phải ngu ngốc đến thế sao?” Những từ ngữ kiểu này rõ ràng bao hàm ý kiến về khả năng còn hơn cả logic đơn thuần - khả năng thực hiện những lựa chọn khác với những gì đã được thực hiện trên thực tế, đó là những khác biệt giữa những tình huống mà ở trong đó các cá nhân có thể bị xem là phải chịu trách nhiệm cho những hành động của mình, và những tình huống mà họ không thể chịu trách nhiệm. Vì lẽ không ai muốn phủ nhận rằng chúng ta rất thường hay tranh cãi về những đường hướng của hành động mở ra cho con người trong hiện tại và quá khứ cũng như tương lai, trong các hư cấu và trong những giấc mơ; rằng các nhà sử học (các viên cảnh sát điều tra và các quan tòa và các ban giám khảo) toan tính thiết lập thật chính xác theo khả năng của mình xem những cơ hội ấy là gì; rằng những cách thức mà các tuyến đường ấy được vẽ nên đánh dấu ranh giới giữa lịch sử đáng tin cậy và không đáng tin cậy; rằng cái được gọi là chủ nghĩa hiện thực (như đối lập lại với điều tưởng tượng hay sự ngu dốt về đời sống hay những mộng mơ Không tưởng) bao gồm việc nhận diện thật chính xác những gì đã có (hay đã có thể có) trong ngữ cảnh về những gì đã có thể xảy ra (hay có khả năng xảy ra) và trong sự phân chia ranh giới của những thứ đó với những gí là không thể có; rằng đây chính là những gì (như tôi cho rằng L.B. Namier86 có lần đã gợi ý) mà rốt cuộc ý nghĩa của lịch sử phải đi tới; rằng công lí lịch sử (cũng như công lí hợp pháp) phụ thuộc vào chính khả năng này; rằng chỉ có nó mới khiến cho việc nói về phê phán, hay ca ngợi và chê trách, như là chính đáng hay xứng đáng hay vô lí hay bất công, trở nên khả dĩ; hoặc [không ai muốn phủ nhận] rằng đó là lí do hiển nhiên duy nhất tại sao những tai nạn, bất khả kháng (force majeure) - không thể tránh khỏi - lại nhất thiết phải ở bên ngoài phạm trù trách nhiệm và do đó mà vượt qua giới hạn phê phán, vượt qua quyền hạn ca ngợi và chê trách. Sự khác biệt giữa điều được chờ đợi và điều khác thường, điều khó khăn và điều dễ dàng, điều bình thường và điều quá quắt, cũng dựa trên việc vạch ra những tuyến [phân cách] như thế.
Tất cả những điều này có vẻ quá hiển nhiên-tự thân, nên chẳng cần tranh cãi. Có vẻ như quá thừa, nếu bổ sung thêm rằng tất cả những thảo luận của các nhà sử học về việc liệu một chính sách nhất định đã có thể hay đã không thể được ngăn chặn, và do đó mà phải có quan điểm thế nào đối vối những hành động cũng như tính cách của những diễn viên, [những thảo luận ấy] chỉ có thể hiểu được dựa trên giả định về tính hiện thực ở những lựa chọn của con người. Nếu giả sử tất định luận là một lí thuyết đúng về hành vi con ngươi, thì những phân biệt này hẳn là không thích hợp giống như quy trách nhiệm đạo đức cho hệ thống hành tinh hay cho những mô của tế bào sống. Nhưng phạm trù ấy thấm sâu vào tất cả những gì chúng ta suy nghĩ và cảm nhận, thật phổ quát và tràn khắp mọi nơi, khiến cho việc loại bỏ chúng khỏi suy nghĩ và tưởng tượng xem không có chúng thì chúng ta phải suy nghĩ, cảm nhận và nói những gì và như thế nào, hoặc là trong khuôn khổ của những phạm trù đối lập lại thì khả năng của chúng ta bị căng ra về tâm lí thật lớn sẽ như thế nào - [chuyện như thế] sẽ hầu như, nếu không phải là hoàn toàn, bất khả thi, chẳng hạn cũng giống như việc chúng ta giả đò như đang sống trong một thế giói mà ở đó không gian, thời gian hay những con số trong ý nghĩa thông thường không còn tồn tại nữa. Thực ra chúng ta vẫn luôn có thể tranh cãi về những tình huống đặc biệt, xem thử liệu một chuyện đã xảy ra có thể được giải thích tốt nhất hay không, như là một hiệu quả không thể tránh khỏi của những sự kiện đã xảy ra trước đó nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, hoặc ngược lại do sự lựa chọn tự do của con người; tự do trong ý nghĩa không phải đơn thuần là trường hợp hẳn đã thay đổi khác đi rồi, nếu giả sử chúng ta đã lựa chọn - đã cố hành động - khác đi; mà tự do trong ý nghĩa không có gì ngăn cản chúng ta lựa chọn như thế.
Cũng có thể sự tăng trưởng của khoa học và tri thức lịch sử thực sự có chiều hướng chứng tỏ - khiến cho có nhiều khả năng - rằng nhiều thứ cho đến nay vẫn quy cho hành động của những ý chí không bị kiểm soát của các cá nhân, sẽ có thể được giải thích thỏa đáng đơn thuần bằng hoạt động của những yếu tố khác, mang tính “tự nhiên”, khách quan; rằng do ngu dốt và phù phiếm chúng ta đã suy rộng vương quốc tự do của con người quá xa. Thế nhưng chính ý nghĩa của những thuật ngữ như “nguyên nhân” và “không thể tránh khỏi” phụ thuộc vào những hình dung đối lập. Những khả năng khác nhau ấy có thể không chắc có thực; nhưng ít nhất chúng cũng phải có thể quan niệm được, nếu chỉ để tương phản chúng với những tất yếu nhân quả và những thống nhất tuân theo định luật; nếu chúng ta không gắn ý nghĩa nào đó cho ý kiến về những hành động tự do, tức là những hành động không hoàn toàn bị quyết định bởi những sự kiện xảy ra trước đó hay bởi tự nhiên và những “đặc trưng tính khí” của con người cá nhân hay của các sự vật, thì thật khó mà hiểu được tại sao chúng ta lại đi đến chỗ phân biệt những hành động gắn với trách nhiệm và những hành động đơn thuần là những khúc đoạn trong một chuỗi nhân quả về mặt thể xác, tâm lí hay tâm lí-thể xác của các sự kiện - một sự phân biệt có ý nghĩa (ngay cả nếu như tất cả các ứng dụng đặc thù của nó là sai lam) bởi một chùm các từ ngữ xử lí với các khả năng lựa chọn khác nhau để ngỏ và những lựa chọn tự do. Tuy nhiên, sự phân biệt này lại chính là thứ làm nền tảng cho việc quy định các giá trị, đặc biệt là sự ca ngợi và chê trách, là thứ có thể đã được ban tặng [cho chúng ta] từ xưa tới nay thật chính đáng (chứ không đơn thuần là hữu ích hay hiệu quả). Nếu giả sử giả thuyết tất định luận là chân lí và thực sự ghi lại thật đầy đủ thế giới thực, thì có một ý nghĩa rõ ràng ở trong đó, bất chấp tất cả phép ngụy biện phi thường đã được đưa ra để tránh khỏi kết luận này, [khẳng định rằng] ý kiến về trách nhiệm của con người như vẫn thường được hiểu, sẽ không thể áp dụng được cho bất cứ hành động thực sự nào, mà chỉ có thể áp dụng cho những tình trạng sự việc ở trong hình dung hay quan niệm mà thôi.
Ở đây tôi không muốn nói rằng tất định luận nhất thiết là trá ngụy, mà chỉ nói rằng chúng ta không suy nghĩ cũng chẳng nói năng cứ tựa như tất định luận là chân lí, và rằng thật khó khăn để quan niệm bức tranh thế giới sẽ như thế nào nếu chúng ta tin vào tất định luận một cách nghiêm chỉnh, và có thể chuyện này vượt ra ngoài khả năng bình thường của chúng ta; nói như một số lí thuyết gia lịch sử (và một số nhà khoa học có khuynh hướng triết lí) thường hay làm, nếu giả sử người ta có thể chấp nhận giả thuyết tất định luận (ở trong đời sống chứ không phải chỉ trong nghiên cứu), mà vẫn tiếp tục suy nghĩ và nói năng thật giống như chúng ta trong hiện tại, thì ấy là nuôi dưỡng sự nhầm lẫn trí tuệ. Nếu niềm tin vào tự do - là thứ dựa trên giả thiết cho rằng con người đôi khi quả thật có lựa chọn, và rằng những lựa chọn của họ không bị phá hủy hoàn toàn bởi những giải thích nhân quả vốn được chấp nhận, chẳng hạn như trong vật lí học hay sinh vật học - nếu điều này là một ảo tưởng tất yếu, thì ảo tưởng ấy thật quá sâu nặng và quá tràn lan đến nỗi nó không được cảm nhận như là ảo tưởng87. Chắc chắn chúng ta có thể cố thuyết phục bản thân rằng chúng ta đang bị đánh lừa một cách hệ thống88; thế nhưng trừ phi chúng ta toan tính nghĩ ra được những ẩn ý của khả năng này và biến cải kiểu cách suy nghĩ và nói năng của chúng ta cho phù hợp với nó, thì giả thuyết ấy vẫn còn là chỗ rỗng; tức là chúng ta thay nó không thể thực hiện được ngay cả việc ấp ủ nó trong lòng thật nghiêm chỉnh, nếu hành vi của chúng ta được xem như bằng chứng về điều gì chúng ta có thể và điều gì chúng ta không thể bắt mình tin vào hay giả định nó không chỉ trên lí thuyết mà cả trong thực hành nữa.
Ý kiến tôi đưa ra ở đây, ấy là cho rằng việc toan tính nghiêm chỉnh thích ứng những suy nghĩ và lời nói của chúng ta với tất định luận là một công việc đáng sợ, trong khi mọi thứ đang như hiện tại và vốn đã như thế trong phạm vi lịch sử được ghi lại. Những biến đổi liên quan đến nó là rất căn bản; những phạm trù đạo đức và tâm lí của chúng ta rốt cuộc linh hoạt hơn là phạm trù thể xác của chúng ta, thế nhưng cũng không linh hoạt quá nhiều đến thế; cũng không dễ dàng hơn để nghĩ ra cái vũ trụ của người theo tất định luận chân chính sẽ giống với cái gì dưới dạng thức hiện thực mà hành vi và lời nói phải phù hợp với nó, không dễ dàng hơn là nghĩ ra được việc sống trong một thế giới không có thời gian thì sẽ như thế nào với chi tiết cụ thể tối thiểu không thể thiếu được (tức là bắt đầu hình dung tưởng tượng), hoặc là một thế giới với không gian 17 chiều. Những ai còn nghi ngờ thì cứ thử xem; những biểu tượng mà chúng ta vẫn tư duy cùng với chúng, sẽ rất khó cho vay mượn để thí nghiệm; về phần mình chúng liên quan quá sâu ở trong quan điểm bình thường của chúng ta về thế giới, cho phép mọi khác biệt về thời kì và khí hậu và văn hóa, chúng khó mà chịu được sự đổ vỡ đầy bạo lực đến thế. Tất nhiên, chúng ta có thể tạo ra những ẩn ý của bất cứ mạng lưới những tiền đề hòa hợp nội tại nào - logic và toán học sẽ làm mọi công việc mà chúng đòi hỏi - nhưng đây là chuyện rất khác với việc biết được kết quả nhìn thấy được sẽ như thế nào “trong thực tế”, những điều canh tân cụ thể là gì; và vì rằng lịch sử không phải là một khoa học diễn dịch (và ngay cả xã hội học cũng nhanh chóng trở nên ít dễ hiểu khi nó mất đi tiếp xúc với những nền tảng thường nghiệm của mình), những giả thuyết như thế, vốn là những mô hình trừu tượng, thuần khiết và không được áp dụng, sẽ chẳng mấy ích lợi cho những ai nghiên cứu đời sống con người. Vì thế mà việc tranh cãi cổ xưa giữa ý chí tự do và tất định luận, trong khi vẫn còn là vấn đề đích thực đối với các nhà thần luận và các triết gia, cũng không nhất thiết phải làm xáo động tư tưởng của những người chỉ quan tâm đến những đối tượng thường nghiệm - đời sống thực của những con người trong không gian và thời gian của trải nghiệm bình thường. Đối với các nhà sử học thực hành thì tất định luận không phải là chuyện quan trọng và cũng không cần thiết phải là thế.
Dẫu cho đến nay tất định luận có thể vẫn còn là không thể áp dụng được như một lí thuyết về hành động của con người, thế nhưng những hình thức đặc thù của giả thuyết tất định luận đã đóng một vai trò thu hút chú ý, dù hạn chế, trong việc biến cải những quan điểm về trách nhiệm của con người. Sự không thích hợp của giả thuyết [tất định luận] tổng quát đối với những nghiên cứu lịch sử không được che mắt chúng ta trước tầm quan trọng của nó, được trình bày ngắn gọn ở trên, như một hiệu chỉnh đặc biệt đối với [những tệ nạn] ngu dốt, thành kiến, giáo điều và hoang tưởng ở những người phê phán hành vi của những người khác. Vì rõ ràng là một điều tốt, khi chúng ta bị nhắc nhở bởi các nhà khoa học xã hội rằng phạm vi lựa chọn của con người bị hạn chế khá nhiều, nhiều hơn là chúng ta vẫn tưởng; rằng bằng chứng mà chúng ta có được cho thấy nhiều hành động vốn vẫn thường hay được xem như ở trong tầm kiểm soát của cá nhân, thực ra lại không phải thế - rằng con người là một đối tượng (khả dĩ tiên đoán khoa học được) trong tự nhiên ở mức độ lớn hơn là đôi khi trước đây người ta đã tưởng, rằng con người thường hay không hành động như lẽ ra phải làm, do những đặc trưng di truyền, hoặc những đặc trưng của môi trường xã hội hay môi trường vật thể, hay của nền giáo dục, hoặc là những đặc trưng sinh học hay thể xác, hoặc là tác động qua lại của những yếu tố ấy với nhau, hay với những yếu tố tăm tối hơn, được gọi không mấy chính xác là các đặc trưng tâm lí; và rằng những thói quen tư duy, cảm xúc và biểu hiện hình thành nên, ít nhất về nguyên tắc, có thể được phân loại và tạo thành đề tài cho những giả thuyết và những định luật có tính hệ thống, giống như hành vi của những đối tượng vật chất. Và điều này chắc chắn biến cải những ý tưởng của chúng ta về những giới hạn của tự do và trách nhiệm. Nếu chúng ta được nói cho biết rằng một trường hợp ăn cắp được xem xét là do xung động ăn cắp gây nên, chúng ta sẽ phản đối rằng cách đối xử thích đáng không phải là trừng phạt, mà là chữa trị căn bệnh; và tương tự, nếu một hành động mang tính phá hoại hay một tính cách xấu xa được quy cho một nguyên nhân đặc biệt về tâm lí hay xã hội, và nếu chúng ta được thuyết phục rằng lời giải thích là đúng, chúng ta sẽ quyết định rằng tác nhân không phải chịu trách nhiệm về hành động của mình, và hệ quả là anh ta đáng được chữa trị hơn là bị trừng phạt hình sự. Thật đáng hoan nghênh khi được nhắc nhở về tính hạn hẹp của khu vực mà ở bên trong nó chúng ta có thể bắt đầu đòi được tự do; một số người có thể cho là tri thức như thế vẫn còn đang gia tăng, và khu vực [tự do] vẫn đang co hẹp lại.
Đường ranh giới giữa tự do và các định luật nhân quả cần phải xác đinh là một vấn đề trọng yếu của thực hành; tri thức về ranh giới ấy là thứ thuốc giải độc không thể thiếu đối với sự ngu dốt và phi lí tính, và cho chúng ta những kiểu cách giải thích mới mẻ - về lịch sử, tâm lí, xã hội học, sinh học - mà những thế hệ trước còn thiếu. Những gì chúng ta không thể biến cải, hay không thể biến cải nhiều như chúng ta tưởng, không thể được sử dụng như bằng chứng có lợi hay chống lại chúng ta như những tác nhân đạo đức tự do; nó có thể gây cho chúng ta cảm xúc hãnh diện, hổ thẹn, tiếc nuối, thú vị, nhưng không ăn năn; nó có thể được thán phục, bị ghen tị, lên án, vui mừng, sợ hãi, kinh ngạc, nhưng không phải ca ngợi hay chê trách (ngoại trừ trong một ý nghĩa gần như mĩ học); khuynh hướng phẫn nộ của chúng ta được kiềm chế, chúng ta ngừng buông xuôi cho việc phán xét. “Tôi không đề nghị điều gì, tôi không giả định điều gì, tôi không áp đặt điều gì… tôi trình bày”89, một nhà văn Pháp đã hãnh diện nói, và đối với ông sự trình bày như thế có nghĩa là đối xử với tất cả các sự kiện như những hiện tượng mang tính nhân quả hay thống kê, như chất liệu khoa học, loại bỏ đi các phán xét đạo đức.
Những nhà sử học thuộc tín ngưỡng này lo sao tránh đưa ra tất cả mọi phán xét trước hết nhắm vào cá nhân, mọi phán xét đạo đức, họ có khuynh hướng nhấn mạnh ưu thế to lớn vô cùng của những yếu tố khách quan trong lịch sử, của môi trường vật thể mà cuộc sống diễn ra ở đó, sức mạnh của những yếu tố địa lí, tâm lí, xã hội, là những yếu tố dù sao cũng không có ý thức, không phải nhân tạo và thường nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Điều này có khuynh hướng ngăn chặn thói ngạo mạn của chúng ta, thuyết phục chúng ta khiêm nhường bằng cách ép buộc chúng ta thừa nhận rằng nhãn quan và các thang bậc giá trị của chính chúng ta được chấp nhận chẳng phải lâu dài cũng chẳng phải là phổ quát, rằng những phân loại đạo đức được tin tưởng quá mức, quá tự mãn của các nhà sử học trong quá khứ cũng như của các xã hội của họ, đều nảy sinh thật quá hiển nhiên từ những điều kiện lịch sử đặc thù, từ những hình thức đặc thù của sự ngu dốt hay thói vênh váo, hay từ những đặc điểm tính khí của nhà sử học (hay kẻ dạy đời), hay từ những nguyên nhân và những hoàn cảnh khác mà từ vị trí lợi thế của mình, chúng ta cảm nhận chúng thuộc về nơi chốn và thời gian riêng của chúng và chúng đã gây ra những diễn giải mà sau này có vẻ như thuộc phong cách riêng, tự mãn, nông cạn, không chính đáng và thường có vẻ quái dị dưới ánh sáng của những chuẩn mực riêng của chúng ta về độ chính xác và tính khách quan. Và điều thậm chí còn quan trọng hơn nữa, ấy là đường hướng tiếp cận như thế gieo mối hoài nghi lên những toan tính thiết lập một ranh giới xác định giữa sự lựa chọn tự do của cá nhân và tính tất yếu tự nhiên cũng như tất yếu xã hội của cá nhân ấy, và đạt được điều này bằng cách vạch ra những sai lầm quá mức của một số trong những người cố gắng giải quyết vấn đề này hay vấn đề kia trong quá khứ và họ đã phạm sai lầm về những sự kiện mà giờ đây đã hoàn toàn rõ ràng là do môi trường, hay tính cách, hay những mối quan tâm (không thể biến cải) của chúng gây nên. Và điều này có chiều hướng khiến cho chúng ta tự hỏi rằng liệu có thể chính chuyện này cũng thật đúng như thế đối vớỉ chúng ta và những phán xét lịch sử của chính chúng ta hay không, và như vậy, bằng cách giả định răng môi thế hệ đều bị quy định một cách “chủ quan” bởi những đặc thù riêng về văn hóa và tâm lí của nó, chúng ta đi đến chỗ tự hỏi liệu có phải tốt nhất là tránh đi tất cả những phán xét đạo đức, tất cả những quy kết trách nhiệm, liệu có phải an toàn nhất là giới hạn mình ở dạng thức khách quan và bỏ đi không nói tới bất cứ điều gì không thể phát biểu được dưới dạng thức ấy. Phải chăng chúng ta đã chẳng học được gì từ chủ nghĩa giáo điều bất khoan dung về đạo đức và những phân loại mang tính cơ giới của những nhà sử học và những kẻ dạy đời và những chính khách, mà quan điểm của họ ngày nay thật lạc hậu, thật lỗi thời và bị tai tiếng thật đích đáng? Và thực ra chúng ta là ai mà cứ phô trương ra những ý kiến quan điểm cá nhân như thế, gán một tầm quan trọng cho những gì vốn chẳng qua chỉ là những triệu chứng bệnh nơi nhãn quan phù du của riêng chúng ta? Trong bất cứ trường hợp nào thì chúng ta có quyền gì mà ngồi phê phán đồng loại của mình, những người mà các lề luật đạo đức của họ là sản phẩm của những môi trường lịch sử đặc thù của họ, giống như các lề luật đạo đức của riêng chúng ta là của chúng ta? Chẳng phải là tốt hơn hay sao, khi phân tích, mô tả, trình bày các sự kiện và rồi sau đó rút lui và để mặc cho các sự kiện “tự chúng nói lên”, cố kìm lại việc đưa ra nhận định bất khoan dung của việc cho điểm, vạch ra công lí, phân biệt kẻ tốt người xấu theo tiêu chuẩn riêng của cá nhân chúng ta, cứ tựa như những nhận định ấy mang tính vĩnh cửu, chứ không phải như thực sự chúng vốn là: chẳng có giá trị nhiều hơn hay ít hơn nhận định của những người khác với những mối quan tâm khác trong những điều kiện khác?
Lời khuyên như thế cho chúng ta (tự thân nó thật đáng hoan nghênh) giữ lại một thái độ hoài nghi nhất định về quyền lực phán xét của chính chúng ta, đặc biệt là thận trọng trong việc quy quá nhiều quyen uy cho những quan điểm đạo đức của riêng chúng ta, [lời khuyên ấy] đến với chúng ta từ những người cho rằng chúng ta biết quá nhiều và từ những người cho rằng chúng ta biết quá ít, như tôi đã nói. Những người thứ nhất nói rằng bây giờ chúng ta biết được chúng ta đang là như chúng ta hiện nay là, và tiêu chuẩn đạo đức và trí tuệ của chúng ta đang là như chúng hiện nay là, ấy là do tình huống lịch sử tiến triển. Hãy để tôi nhắc lại một lần nữa về những khác biệt muôn vẻ của họ. Một số trong họ là những người cảm thấy chắc chắn rằng các khoa học tự nhiên rốt cuộc sẽ tường trình được mọi thứ, họ sẽ giải thích hành vi của chúng ta dưới dạng thức của những nguyên nhân tự nhiên, số khác là những người chấp nhận một diễn giải nhiều tính siêu hình hơn về thế giới, họ giải thích điều này bằng cách nói về những sức mạnh và quyền thống trị vô hình, những quốc gia, chủng tộc, nền văn hóa; Tinh thần của Thời đại, cách thức hoạt động, công khai và bí ẩn, về “Tinh thần cổ điển”, “Phục hưng”, “Tâm hồn Trung cổ”, “Cuộc cách mạng Pháp”, “Thế kỉ 20”, được quan niệm như những thực thể khách quan, đồng thời cũng là những khuôn mẫu và hiện thực, dưới dạng thức “cấu trúc” hay “mục đích” của chúng, những phần tử và những biểu hiện của chúng, mà con người và những tổ chức rộng lớn phải có hành vi như đang có. Vẫn còn có những người khác nói dưới dạng thức của cuộc diễu hành thần học nào đó, hay hệ thống cấp bậc, nhờ đó tất cả các cá nhân, đất nước, những tổ chức rộng lớn, nền văn hóa, các thời đại, đều thực hiện một số vai diễn của họ trong một vở kịch vũ trụ nào đó, và họ là những gì họ là, ấy là do vai diễn đòi hỏi họ, nhưng không phải tự họ, mà do chính Nhà viết kịch thần thánh làm. Từ đó thì cũng không còn xa để đi đến quan điểm của những người nói rằng Lịch sử sáng suốt hơn chúng ta, rằng những mục đích của nó chúng ta khó dò được, rằng chúng ta, hay một số người trong chúng ta, chỉ là những phương tiện, những công cụ, những hiển lộ, là nhân vật quan trọng hay không quan tròng của một sơ đồ bao trùm hết thảy về sự tiến bộ mãi mãi của con người, hay của Tinh thần Đức, hay của giai cấp Vô sản, hay của nền văn minh hậu-Kitô giáo, hay của con người Faust, hay của Số phận Hiển lộ, hay của Thế kỉ của nước Mĩ, hay của huyền thoại hay điều bí ẩn hay ý trừu tượng nào đó khác. Biết được tất cả tức là hiểu được tất cả; đây là biết tại sao các sự vật là như thế và phải là như chúng là; do đó chúng ta càng biết nhiều thì chúng ta càng thấy rằng những người cho là các sự vật có thể đã khác, và do đó rơi vào cám dỗ phi lí tính ca ngợi hay chê trách, [những người như thế] thật là vô lí. Hiểu được tất cả, tức là tha thứ được hết90 được biến đổi đơn thuần thành một chân lí muôn thuở. Bất cứ hình thức nào của chỉ trích đạo đức - ngón tay trỏ kết tội của các nhà sử học hay nhà báo hay các chính khách và thực ra là những đau khổ khắc khoải của lương tâm cá nhân nữa - cho đến nay có xu hướng được giải thích gạt bỏ đi như là một dạng tinh vi này nọ của những cấm kị nguyên thủy hay của những căng thẳng tâm lí hay của những xung đột mà giờ đây đang hiện ra như ý thức đạo đức, giờ đây như một sự cho phép nào đó khác, đang vượt quá khổ và ăn bám vào sự ngu dốt, mà vốn chỉ có riêng nó là tạo ra những niềm tin sai trái về ý chí tự do và về lựa chọn chẳng có nguyên nhân, sự ngu dốt ấy nhất định sẽ biến mất đi trong ánh sáng đang gia tăng của chân lí khoa học hay chân lí siêu hình.
Hoặc giả chúng ta một lần nữa lại thấy rằng những môn đồ của siêu hình học mang tính xã hội học, hay lịch sử, hay nhân chủng học có xu hướng diễn giải ý nghĩa của sứ mệnh và sự hiến dâng, tiếng nói của nghĩa vụ, tất cả những hình thức thôi thúc nội tâm kiểu này, như một biểu hiện của những “sức mạnh khách quan rộng lớn” trong phạm vi đời sống ý thức của mỗi cá nhân, những “sức mạnh khách quan” ấy kiểm soát đời sống ý thức cá nhân, và cất tiếng nói “trong chúng ta”, “thông qua chúng ta”, “nói với chúng ta”, nhằm những mục đích bí hiểm riêng. Nghe thấy được tức là tuân phục theo nghĩa đen - được lôi cuốn hướng tới mục tiêu đích thực của bản ngã “thực sự” của chúng ta, hay như là sự phát triển “tự nhiên” hay “hợp lí tính” của nó - tức là chúng ta được hiệu triệu vì thuộc về giai cấp này hay giai cấp kia, hay quốc gia, hay chủng tộc, hay Giáo hội, hay cấp bậc trong xã hội, hay truyền thống, hay thời đại, hay nền văn hóa. Lời giải thích, và sức nặng của trách nhiệm theo một nghĩa nào đó, đối với tất cả những hành động của con người được dịch chuyển (thi thoảng với sự giảm bớt không được che đậy kĩ) lên những cái lưng rộng rãi của những sức mạnh khách quan rộng lớn ấy - những tổ chức rộng lớn hay chiều hướng lịch sử - được tạo ra tốt hơn đặng kham nổi những gánh nặng như thế, tốt hơn là cây sậy yếu ớt biết suy nghĩ giống như con người, một sinh vật với hoang tưởng thật khó thích hợp được với khiếm khuyết về thể xác và đạo đức của nó, mà lại rất thường hay tuyên bố chịu trách nhiệm về cách hoạt động của Tự nhiên hay của Tinh thần; rồi xông lên với tầm quan trọng của anh ta, với những ca ngợi và chê trách, với sùng kính và tra tấn hành hạ, với việc sát hại và lưu danh muôn thuở những sinh vật khác giống như mình, vì họ đã thai nghén, dự định hay thi hành những chính sách, mà cả anh ta và bọn họ đều ít có khả năng phải chịu trách nhiệm; cứ tựa như xông lên ngồi phán xét trịnh trọng lẫn nhau vì đã tạo ra những cuộc cách mạng trên mặt trời hay tạo ra những biến đổi khí hậu tác động đến cuộc sống của họ. Thế nhưng chúng ta thu được sự thấu hiểu đầy đủ về những vai diễn “không thể lay chuyển” và “không thể tránh khỏi”, được trình diễn bởi tất cả những sinh vật và những vật vô tri giác trong tiến trình vũ trụ, [chúng ta thu được sự thấu hiểu ấy] cũng không sớm hơn lúc chúng ta sẽ được giải thoát khỏi cảm nhận về nỗ lực cá nhân. Cảm nhận của chúng ta về phạm tội và tội lỗi, những day dứt của chúng ta về ăn năn và tự trách, sẽ được hóa giải một cách tự động; sự căng thẳng, nỗi lo sợ thất bại và nản lòng sẽ biến mất vì chúng ta trở nên nhận biết được về những phần tử của “một toàn thể hữu cơ” mà chúng ta được miêu tả khác nhau như là các chi [của một cơ thể] hay thành viên [của một hệ thống], hay những phản ánh, hay những nguồn phát, hay những biểu hiện hữu hạn; cảm nhận của chúng ta về tự do và độc lập, niềm tin của chúng ta về một khu vực dù có bị hạn chế tới đâu, mà ở trong đó chúng ta có thể lựa chọn hành động như chúng ta thích, [cảm nhận và niềm tin ấy] sẽ sụp đổ; thay cho điều đó chúng ta sẽ được cung cấp cho một cảm nhận tư cách thành viên trong một hệ thống có trật tự, mỗi người với một vị trí duy nhất được dành riêng cho một mình anh ta. Chúng ta là những người lính trong một đoàn quân, và sẽ không còn phải chịu nỗi đau và hình phạt của cảnh cô đơn; đoàn quân đang hành tiến, hay những mục tiêu đã được sắp đặt cho chúng ta, không phải chúng ta chọn; những hoài nghi được quyền uy làm cho câm lặng. Sự gia tăng tri thức sẽ đem đến cùng với nó việc giảm nhẹ đi những gánh nặng đạo đức, vì nếu những sức mạnh ở bên ngoài và bên trên chúng ta đang hoạt động, mà quy trách nhiệm cho hoạt động của chúng hay tự chê trách bản thân chúng ta về thất bại, thì đó là sự bạo gan hoang dại. Tội lỗi nguyên thủy như vậy được dịch chuyển cho một trình độ khách quan, những hành động cho đến nay vẫn được xem là độc ác hay không thể biện minh được, nay sẽ được nhìn nhận theo một phong cách “khách quan” hơn - trong một ngữ cảnh rộng lớn hơn - như là bộ phận của một tiến trình lịch sử, trong khi nó chịu trách nhiệm về chuyện đã cung cấp cho chúng ta cái thang bậc giá trị của chúng ta, nhưng bản thân nó phải không bị phán xét về chuyện này dưới dạng thức của cái thang bậc ấy; [những hành động nói trên] nay được quan niệm trong ánh sáng mới mẻ ấy, hóa ra sẽ không còn là độc ác nữa, mà lại là đúng đắn và tốt đẹp bởi vì là tất yếu bởi cái toàn thể.
Đây là học thuyết nằm ở tâm điểm vừa là của những toan tính khoa học nhằm giải thích những quan điểm đạo đức như là “những phần còn lại” mang tính tâm lí học và xã hội học hay những gì tương tự, vừa là của cái nhìn siêu hình mà đối với nó bất cứ cái gì là “đích thực” thì ắt phải tốt đẹp. Hiểu được tất cả tức là nhìn thấy được rằng không có thứ gì có thể lại khác được với thứ như nó đang là thế; rằng mọi chê trách, phẫn nộ, phản kháng chỉ đơn thuần là lời than vãn về những gì có vẻ như không hài hòa, về những phần tử có vẻ như không vừa khớp, về sự vắng mặt của một khuôn mẫu thỏa mãn trí tuệ và tâm linh. Thế nhưng đó luôn luôn là bằng chứng đơn thuần của thất bại từ phía người quan sát, của sự mù quáng và ngu dốt của anh ta; điều này không khi nào lại là một ý kiến đánh giá khách quan về hiện thực, vì trên thực tế mọi thứ nhất thiết phải vừa khớp, không có gì là thừa, không có gì là sai lệch, mỗi thành tố đều “được biện minh” về chuyện nó đang ở đó do yêu cầu của cái toàn thể siêu việt; và mọi cảm nhận tội lỗi, bất công, xấu xí, mọi kháng cự hay chê trách chỉ đơn thuần là bằng chứng (đôi khi là không tránh khỏi) của việc thiếu tầm nhìn, hiểu sai, lệch lạc chủ quan. Thói xấu, nỗi đau, sự điên rồ, không thích nghi được, tất cả đều do thất bại trong việc hiểu biết, do thất bại trong việc “gắn kết” như trong câu nói nổi tiếng của E.M. Forster.91
Đây là bài thuyết giáo được thuyết giảng giống y như nhau cho chúng ta bởi những nhà tư tưởng cao quý với những quan điểm rất khác nhau, bởi Spinoza và Godwin92, bởi Tolstoy và Comte, bởi các nhà huyền học và những nhà duy lí, các nhà thần học và những nhà duy vật khoa học, những nhà siêu hình và những nhà thường nghiệm luận giáo điều, các nhà xã hội học Mĩ, các nhà Marxists Nga và các nhà lịch sử luận Đức. Vậy là Godwin (và ông ta nói thay cho nhiều nhân vật nhân bản và văn minh) nói với chúng ta rằng để hiểu được một hành động của con người thì chúng ta luôn phải tránh việc áp dụng những nguyên lí chung và phải khảo sát mỗi trường hợp trong chi tiết cá nhân thật đầy đủ. Khi chúng ta khảo sát kĩ càng kết cấu và khuôn mẫu của cuộc đời này hay cuộc đời kia, chúng ta sẽ không vội vàng và mù quáng tìm kiếm việc chê trách hay trừng phạt; vì chúng ta sẽ xem tại sao người này hay người kia có nguyên do nào để hành động theo kiểu này hay kiểu kia, do ngu dốt hay do nghèo túng hay do khuyết tật đạo đức hay trí tuệ hay thể xác nào đó khác - vì (Godwin giả định một cách lạc quan) chúng ta luôn có thể nhận thấy, nếu chúng ta tự trang bị cho mình có đủ nhẫn nại, tri thức và thiện cảm - thì khi đó chúng ta sẽ chê trách anh ta không hơn là chúng ta phải chê trách một đối tượng trong tự nhiên; và vì thật hiển nhiên là chúng ta không thể nào cùng một lúc vừa hành động theo tri thức của chúng ta, lại vẫn hối tiếc kết quả, rốt cuộc chúng ta có thể và sẽ thành công trong việc làm cho người ta được tốt bụng, công chính, hạnh phúc và sáng suốt. Cũng như vậy, Condorcet và Henri de Saint-Simon, và môn đệ của họ, Auguste Comte, xuất phát từ sự tin chắc đối lập lại - ấy là cho rằng người ta không hề độc đáo hay ở trong hoạn nạn, mỗi người, được đề cập đến như một cá nhân, nhưng cũng không khác những cư dân động vật, vương quốc của rau quả hay khoáng vật, đều thuộc chủng loại và tuân theo những định luật chung, họ khẳng định không kém phần quả cảm rằng một khi những định luật chung ấy được khám phá (và do đó được áp dụng) thì điều này tự nó sẽ dẫn đến hạnh phúc lớn lao có tính chất phổ quát. Sự tin chắc này từ đó đã được lặp lại bởi nhiều nhà thuyết giảng tự do đầy lí tưởng cũng như những nhà duy lí, nhà kĩ trị, nhà thực chứng luận và những tín đồ tin vào việc tổ chức xã hội một cách khoa học; và trong một giọng điệu rất khác biệt [điều này cũng được lặp lại] bởi những nhà chính trị thần quyền, những người lãng mạn tân-trung cổ, những nhà chủ trương toàn trị và những nhà chính trị huyền học các kiểu khác nhau. Thực chất đây cũng là đạo đức học được thuyết giảng, nếu không phải bởi Marx, thì cũng bởi phần lớn các môn đệ của Engels và Plekhanov, bởi các nhà sử học nước Phổ theo chủ nghĩa dân tộc, bởi Spengler và bởi nhieu nhà tư tưởng khác - những người tin rằng có một khuôn mẫu họ nhìn thấy được trong khi những người khác thì không nhìn thấy, hay ít nhất cũng không nhìn thấy rõ như thế, và rằng nhờ tầm nhìn ấy mà người ta sẽ được cứu rỗi.
Hãy hiểu biết và anh sẽ không lạc đường. Điều gì chúng ta phải biết thì khác nhau từ nhà tư tưởng này tới nhà tư tưởng khác, khác nhau giống như các quan điểm về bản chất thế giới khác nhau vậy. Hãy biết những định luật của vũ trụ, có sinh khi và vô tri giác, hay những nguyên lí của tăng trưởng, hay của tiến hóa, hay của sự trỗi dậy và suy vong của các nền văn minh, hay những mục tiêu mà mọi sự sáng tạo đều hướng tới, hay những giai đoạn của Ý tưởng, hay thứ gì đó còn ít xác thực hơn nữa. Biết, theo nghĩa đồng nhất hóa bản thân anh với nó, hiểu được tính độc nhất của anh với nó, bởi vì dù anh có thể làm gì thì anh cũng không thể tránh khỏi các định luật mà anh là đối tượng của chúng, dù những định luật ấy có thể là loại gì đi nữa, tính chất “cơ giới”, tính chất “sống”, tính nhân quả, tính mục đích, bị áp đặt, tính siêu việt, tính nội tại, hay hằng hà sa số các tình tiết không sờ thấy được trói buộc anh với quá khứ - với đất đai và với những người đã chết như Barrès93 đã tuyên bố; với môi trường, chủng tộc và thời điểm, như Taine94 khẳng định; với xã hội vĩ đại của những người đã chết và những người đang sống của Burke95, cái xã hội đã tạo ra anh như những gì anh đang là; cho nên cái chân lí anh tin vào, những giá trị mà anh dựa vào để phán xét, từ những nguyên lí sâu xa nhất cho đến những ý thích bất chợt tầm thường nhất, đều là bộ phận và từng phần của chuỗi lịch sử liên tục mà anh thuộc về. Truyền thống hay dòng máu hay giai cấp hay bản chất con người hay tiến bộ hay nhân bản; Tinh thần thời đại (Zeitgeist) hay cấu trúc xã hội hay các định luật lịch sử hay những mục tiêu đích thực của cuộc đời; hãy biết những điều đó - hãy trung thành với chúng - và anh sẽ được tự do. Từ Zeno cho đến Spinoza, từ những nhà Ngộ đạo (Gnostics) cho đến Leibniz, từ Thomas Hobbes cho đến Lenin và Freud, khẩu hiệu về cơ bản đều là cùng một thứ; đối tượng của tri thức và những phương pháp khám phá thường đã đối lập nhau dữ dội, thế nhưng cho rằng hiện thực có thể nhận thức được và rằng tri thức và chỉ có tri thức thôi mới giải phóng con người, và tri thức tuyệt đối sẽ giải phóng tuyệt đối - những điều này là chung cho nhiều học thuyết, những học thuyết này là một bộ phận thật rộng lớn và có giá trị của nền văn minh phương Tây.
Hiểu được tức là giải thích được, và giải thích tức là biện minh. Ý kiến về tự do cá nhân là một ảo tưởng. Chúng ta càng ở xa sự thông suốt mọi thứ bao nhiêu, thì ý kiến về tự do, trách nhiệm và phạm tội của chúng ta càng rộng ra bấy nhiêu, chúng là những sản phẩm của sự ngu dốt và nỗi sợ hãi, vốn là nơi cư ngụ của điều không biết cùng với những hư cấu gây kinh hãi. Tự do cá nhân là một ảo tưởng cao quý và đã từng có giá trị xã hội của nó; xã hội có thể đã xáo trộn lung tung nếu không có nó, đây là một công cụ cần thiết - một trong những thiết bị vĩ đại nhất của Lí trí hay Lịch sử đầy “xảo trá”, hay của bất cứ sức mạnh vũ trụ nào đó khác mà chúng ta sùng bái. Thế nhưng một ảo tưởng dù có cao quý, hữu ích, được biện minh về phương diện siêu hình, không thể thiếu được về mặt lịch sử thế nào chăng nữa, thì nó cũng vẫn là một ảo tưởng. Và thế thì trách nhiệm cá nhân và tri giác về sự khác biệt giữa những lựa chọn sai trái và đúng đắn, giữa điều ác độc có thể tránh được và sự không may mắn, chỉ đơn thuần là những triệu chứng bệnh, những bằng chứng về thói phù phiếm, về sự hiệu chỉnh không hoàn hảo của chúng ta, về tình trạng thiếu khả năng của con người đối mặt với sự thật. Chúng ta càng biết nhiều hơn, thì gánh nặng lựa chọn càng giảm nhẹ đi nhiều hơn; chúng ta tha thứ cho những người khác về những điều mà họ làm không thể tránh được, và chúng ta cũng tha thứ cho bản thân mình theo cùng chiều hướng đó. Ở những thời đại mà những lựa chọn có vẻ như đặc biệt khổ sở, khi những lí tưởng đang duy trì mạnh mẽ không thể dung hòa được với nhau, và những xung đột không thể ngăn chặn được nữa, thì những học thuyết như thế có vẻ như có tác dụng an ủi đặc biệt. Chúng ta tránh đi những tình thế lưỡng nan về đạo đức bằng cách phủ nhận tính hiện thực của chúng; và chúng ta nhìn chằm chằm về phía những toàn thể vĩ đại hơn để chúng phải chịu trách nhiệm thay cho chúng ta. Tất cả những gì chúng ta mất đi là một ảo tưởng, và cùng với nó là những xúc động đau đớn và dư thừa về phạm tội và ăn năn. Tự do nổi tiếng là đòi hỏi trách nhiệm, và đối với nhiều linh hồn đó là cội nguồn của thái độ hoan nghênh sự cứu trợ làm mất đi cả hai thứ, không phải bằng một hành động đê tiện đầu hàng nào đó mà bằng sự táo bạo ưầm tư suy ngẫm trong một tinh thần bình thản về những sự việc như chúng phải là; vì đây đích thực là triết lí. Bằng cách đó chúng ta quy giản lịch sử thành một thứ vật lí học; chê trách dải thiên hà hay những tia gamma cũng không khác gì chê trách Thành Cát Tư Hãn hay Hitler. “Biết được tất cả tức là tha thứ được tất cả” hóa ra chẳng phải là thứ gì khác, mà chỉ là thứ điệp ngữ trùng ngôn (tautology) được bi kịch hóa lên thôi, như trong câu nói gây ấn tượng của A.J. Ayer96 (sử dụng trong một ngữ cảnh khác)
Nguồn: Tất định luận và tự do lựa chọn (Liberty, Nhà xuất bản Oxford University Press, 2002) của Isaiah Berlin, do dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch một cách đầy đủ và mạch lạc
