![[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 3)](http://thitruongtudo.vn/upload/01_bai_viet/k25004.1_(1).png)
[Tự do kinh tế và chính thể đại diện] Chương 4: Chủ nghĩa xã hội và khoa học (Phần 3)
V.
Nhiệm vụ xem xét lại các giá trị đạo đức là nhiệm vụ mang tính cá nhân, và tiến bộ về mặt đạo đức đạt được trong một số cộng đồng là nhờ các thành viên của các cộng đồng đó áp dụng những quy tắc có khả năng bảo tồn tốt hơn và đem lại lợi ích chung cao hơn cho nhóm của mình. Tiến bộ đạo đức đòi hỏi sự thử nghiệm cá nhân; cụ thể là, trong một khuôn khổ có giới hạn các quy tắc trừu tượng bắt buộc phải tuân thủ, cá nhân được tự do sử dụng tri thức của chính mình để theo đuổi các mục đích của riêng mình. Sự phát triển của cái mà chúng ta gọi là nền văn minh thực chất chính là nhờ nguyên lí này, rằng một người phải chịu trách nhiệm về các hành động của chính mình và hậu quả của chúng và rằng anh ta có quyền tự do theo đuổi các mưu cầu do chính mình đặt ra thay vì phải tuân thủ sự sai bảo của lãnh tụ của cộng đồng nơi anh ta là thành viên. Như tôi đã cố gắng chỉ ra đâu đó trước đây, những niềm tin đạo đức của chúng ta quả là đội khi khá lẫn lộn giữa một bên là các thói quen bản năng kế thừa từ xã hội tiền sử và bên kia là các quy tắc hành xử công bằng, làm tiền đề cho sự tồn tại của xã hội mở. Nhưng luân lí về sự chịu trách nhiệm cá nhân của người trưởng thành đối với phúc lợi của bản thân và gia đình của anh ta vẫn luôn là nền tảng cho hầu hết các xét đoán đạo đức về hành vi. Do vậy, nó là một khuôn khổ không thể tách rời đối với sự vận hành hòa bình của bất kì xã hội phức tạp nào.
Như vậy, tồn tại những niềm tin cơ bản - cụ thể là niềm tin vào trách nhiệm cá nhân và vào khuôn khổ các quy tắc trừu tượng chung giúp chúng ta tôn trọng hành động của những người khác; chúng là cơ sở để xây dựng các quy tắc đạo đức của chúng ta, và nếu không chấp nhận chúng thì chúng ta chẳng thể tiến hành được bất kì một cuộc đối thoại nào về các vấn đề đạo đức. Tuy nhiên, các niềm tin cơ bản đó không thể nào tương thích được với đòi hỏi của những người theo CNXH về một sự tái phân phối thu nhập bằng vũ lực do chính quyền thực hiện. Không có bất kì một phân tích khách quan nào, dù được coi khoa học hay không, lại có thể có chút mảy may nghi ngờ về điều này. Một nhiệm vụ tái phân phối bằng vũ lực cụ thể như vậy, mà dưới con mắt của một chính quyền nào đó là vì các phẩm giá hoặc nhu cầu của những người khác nhau, là phi đạo đức; điều này không đơn giản là bởi tôi nói thế, mà bởi nó xung đột với các giá trị đạo đức nền tảng nhất định mà những người cổ vũ nó cũng chia sẻ. Có một thực tế là các hệ thống luân lí được chấp nhận rộng rãi đã không đưa ra được những giải pháp có tính thuyết phục cho các xung đột về những giá trị mà chúng ta không thể phủ nhận là luôn nảy sinh trong lĩnh vực này, và điều này khiến cho việc tìm ra giải pháp cho các vấn đề chính trị nảy sinh ở đây cũng như cho việc đánh giá đạo đức đối với việc sử dụng biện pháp cưỡng chế để áp đặt một giải pháp nào đó trở trành những đòi hỏi bức xúc nhất.
VI.
Việc hoạch định kinh tế dựa theo chủ nghĩa tập thể - nền tảng tư tưởng được sử dụng trước đây để biện minh cho sự tiến hành quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất, phân phối, và trao đổi - không tránh khỏi việc dẫn tới chế độ toàn trị man rợ. Lí lẽ này đã được chấp nhận tương đối rộng rãi ở phương Tây kể từ khi tôi phân tích quá trình này ở một mức độ khá chi tiết trong cuốn Đường về nô lệ hơn 40 năm trước đây. Tôi không rõ đấy có phải là một phần lí do, hay bởi vì những người theo CNXH ngày càng nhận ra được tính phi hiệu quả không thể khắc phục được của hoạch định tập trung, khía cạnh mà tôi sẽ đề cập đôi chút dưới đây, hay đơn giản là vì họ đã phát hiện ra rằng biện pháp phân phối thông qua việc đánh thuế nhắm vào các khoản thu nhập tài chính là một phương pháp dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn để đạt được mục tiêu của mình; nhưng, dù vì lí do gì thì các đảng phái xã hội chủ nghĩa ở phương Tây ngày nay hầu như đã từ bỏ hoàn toàn những yêu sách hai năm rõ mười rất nguy hại này về một nền kinh tế tập trung. Những người cánh tả kiên định ở một số quốc gia, và các đảng cộng sản, vẫn tiếp tục gây sức ép đòi hỏi điều này, và dĩ nhiên, có lẽ sớm hay muộn gì họ cũng sẽ giành được quyền lực. Nhưng những nhà lãnh đạo được xem là ôn hòa, những người hiện tại lèo lái hầu hết các đảng phái xã hội chủ nghĩa ở Các nước thuộc thế giới tự do, đã trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan truyền thông nhân danh họ, tuyên bố rằng họ - với tư cách là những nhà dân chủ chân chính - xứng đáng được [nhân dân) tin tưởng để ngăn chặn bất kì xu hướng tiến triển nào như thế.
Nhưng liệu họ có thể làm được điều đó? Tôi không có ý nghi ngờ thiện chí tốt đẹp của họ. Tuy nhiên, tôi lại rất nghi ngờ khả năng kết hợp mục tiêu của họ về vấn đề tái phân phối tài sản dựa hoàn toàn vào chính phủ với mục tiêu duy trì, xét trong dài hạn, mức độ tự do cá nhân tối thiểu, ngay cả khi họ thành công trong việc duy trì các hình thức dân chủ. Đúng là sự thay thế chủ nghĩa xã hội lạnh (cold socialism) đã làm nguội đi cái quá trình mà tôi đã dự đoán là chủ nghĩa xã hội nóng (hot socialism) sẽ dẫn đến. Nhưng liệu rốt cuộc nó có thể tránh được những hậu quả giống như của chủ nghĩa xã hội nóng? Có những lí do rất đáng kể để nghi ngờ khả năng chủ nghĩa xã hội lạnh tránh được chúng.
Để thành công, các chính phủ đồng thời sẽ phải (i) duy trì sự vận hành của các thị trường, tức cho phép sự tồn tại của môi trường cạnh tranh ở mức độ sao cho xác định được những mức giá cho tất cả các sản phẩm và các yếu tố sản xuất, những cái đóng vai trò như là những chỉ dẫn tin cậy phục vụ quá trình sản xuất, và (ii) can thiệp ở mức độ tương tự chí ít tới các mức giá lao động (hiển nhiên bao gồm cả những người làm trang trại và “tự sử dụng lao động của mình”) nhằm thỏa mãn các đòi hỏi về mức thu nhập công bằng hay bình đẳng. Thỏa mãn hoàn toàn cả hai đòi hỏi này là việc bất khả. Các chính phủ có thể tìm cách hướng tới một loại giải pháp thỏa hiệp nào đó, và họ cố gắng tránh áp dụng những biện pháp can thiệp gây phương hại đến sự tồn tại của thị trường nếu như họ đã đáp ứng được ở mức độ nhất định các áp lực mạnh mẽ nhất. Nhưng những chính phủ muốn bệ đỡ việc duy trì các yếu tố ắt-phải-có của thị trường, sau khi khởi động việc điều tiết các kết quả của thị trường vì quyền lợi của những nhóm người nhất định nào đó, rõ ràng đang bệ đỡ một dự án chính trị bất khả thi. Một khi các đòi hỏi can thiệp vào thị trường để ưu đãi những nhóm người cụ thể nhất định dần được mọi người nhận ra, một chính phủ dân chủ không thể từ chối đáp ứng các đòi hỏi tương tự của bất kì những nhóm nào khác mà nó cần đến những lá phiếu của họ. Mặc dù quá trình có lẽ diễn ra từ từ, một chính phủ bắt đầu kiểm soát giá cả nhằm đảm bảo những nhãn quan đại chúng về công bằng sẽ có xu hướng trượt dần tới kiểm soát toàn bộ các loại giá cả; và, vì điều này tất phá hủy sự vận hành của thị trường, nên kết cục cuối cùng sẽ vẫn là một nền kinh tế bị điều hành tập trung. Ngay cả khi các chính phủ cố gắng tránh không sử dụng kiểu hoạch định tập trung như thế làm công cụ, thì nếu như họ vẫn kiên định mục tiêu tạo ra sự phân phối thỏa đáng họ tất sẽ bị đẩy đến việc sử dụng biện pháp điều hành tập trung như là một loại công cụ duy nhất nhằm có thể thực hiện được việc kiểm soát toàn bộ quá trình phân phối thu nhập (nhưng lại không khiến hệ thống trở nên công bằng) - và do đó bị đẩy tới hình thành một hệ thống về cơ bản là toàn trị.
Nguồn: Friedrich Hayek (2015). Tự do kinh tế và chính thể đại diện. Đinh Tuấn Minh và Nguyễn Vi Yên dịch.