[Nhập môn về chủ nghĩa tư bản] - Chương 4: Vốn được tạo ra như thế nào?
Muốn hiểu chủ nghĩa tư bản, thì quan trọng là phải hiểu đời sống của vốn: nó không đơn giản là tồn tại mà phải được tạo ra, dễ bị mất hoặc bị hủy hoại và cần phải nỗ lực thì mới giữ được. Những quan niệm sai lầm về những hiện tượng này dẫn đến rất nhiều lời chỉ trích chủ nghĩa tư bản không phù hợp.
Những quan niệm sai lầm về thu giữ vốn
Nhiều nhà phê bình dường như cho rằng chỉ có thể có được vốn bằng cách ăn cắp thành quả lao động vất vả của người khác. Họ khẳng định rằng, những người sử dụng lao động có được vốn bằng cách đánh lừa công nhân: trả cho công nhân ít hơn giá trị mà họ tạo ra. Hoặc tuyên bố rằng các quốc gia tích cóp được vốn bằng cách gây chiến và cướp đoạn sản phẩm của những nước mà họ chinh phục được. Hoặc coi các tập đoàn đang sử dụng ô dù chính trị nhằm tạo ra các công ty độc quyền chuyên lừa người tiêu dùng. Nói cách khác, các nhà tư bản trở thành nhà tư bản là do lừa dối, chiến tranh hay tống tiền. Và giả định rằng số vốn họ có được sau khi thực hiện những tội ác như thế vẫn nằm trong họ, tiếp tục mang lại cho họ lợi nhuận mà không cần bất cứ nỗ lực nào.
Đây là những quan niệm sai - hoặc ít nhất là đã lỗi thời. Chắc chắn là đã từng có giai đoạn mà người ta thường thu giữ vốn bằng vũ lực: đấy là khi các quốc gia xâm lược các quốc gia khác nhằm chiếm đoạt của cải và sau đó sống dựa vào sức lao động của những kẻ chiến bại; đấy là khi giới quý tộc có thể bóc lột những người nông nô của mình; và khi các ông vua trao độc quyền béo bở cho cánh hẩu của họ. Nhưng đó là giai đoạn trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, đấy là khi người ta nghèo hơn hẳn hiện nay và ít người có đủ tiền để mua tậu hàng hoá vốn cho riêng mình. Hiện nay, ở các nước đã phát triển, vũ lực bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và vốn phải được tích lũy bằng các biện pháp hòa bình, không được ép buộc người khác. Vốn không còn là một tài sản quý hiếm, phải tranh giành hay đánh cắp: giờ đây nhiều người trong những khu vực thịnh vượng trên thế giới có thể dễ dàng mua tậu và có thể nắm giữ vốn. Hiện nay, biện pháp hợp pháp duy nhất để có vốn không phải là lấy của người khác, mà là tạo ra cho chính mình.
Quan niệm cho rằng vốn là một tài sản vĩnh viễn, nó mang lại cho chủ sở hữu may mắn những lợi ích tuôn trào liên tục chẳng khác gì dòng suối mà không cần bất cứ nỗ lực nào – tương tự như những quả táo rơi từ trên cây xuống - cũng sai. Trên thực tế, cần dành thời gian, tiền bạc và công sức thì mới giữ được vốn. Cần phải phải giữ và bảo vệ nó. Trong cái thế giới luôn luôn thay đổi và cạnh tranh này, siêng năng và chú tâm thường xuyên thì mới giữ được vốn. Ngay cả cây ăn quả cũng phải được trồng, ghép, tưới nước, phun thuốc, chăm bón và cuối cùng là thay thế, nếu muốn cho vườn cây tiếp tục phát triển. Thậm chí, trái cây phải được thu hoạch và đưa vào sử dụng - chẳng hạn như phân phối cho các cửa hàng hoặc chế biến thành nước uống. Nếu không làm những việc này, thì đấy không còn là một vườn cây ăn trái có giá trị mà sẽ trở thành khu vực bỏ hoang vô dụng, không ai quan tâm: không còn là vốn nữa, mà là nơi để người ta đổ rác.
Một lần nữa, dường như những người chỉ trích không nhìn nhận ra rằng tư bản (và chủ nghĩa tư bản) là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và dân chủ trên thực tiễn. Vốn không đơn giản là tồn tại mà phải được tạo ra. Hiện nay nhiều người chứ không phải chỉ một số ít người đang tạo ra và nắm quyền sở hữu vốn. Giá trị của vốn phụ thuộc trực tiếp vào những sản phẩm mà những người đó tạo ra và cách họ bảo vệ, gìn giữ và áp dụng nó.
Khó giữ được vốn
Vốn có thể bị mất – rất dễ - vì rủi ro và phán đoán sai lầm, bởi tiêu dùng, bị bạo lực và thuế khóa tước đoạt.
Rủi ro và tình trạng bất định. Không thể nào dự đoán được chính xác tương lai. Không thể nào lập kế hoạch cho một số sự kiện bất ngờ làm gián đoạn nỗ lực của chúng ta. Ngay cả khi chúng ta khá tự tin về những sự kiện trong tương lai và tính toán một cách cẩn thận cơ hội thành công hay thất bại, thì vẫn có rủi ro là chúng ta mắc sai lầm.
Vì vậy, khi đầu tư thời gian, công sức hoặc tiền bạc nhằm tạo ra hàng hoá vốn, là chúng ta chấp nhận rủi ro. Đánh giá về kết quả trong tương lai có thể sai: những khoản đầu tư của chúng ta có thể tạo ra lợi nhuận thấp hơn là kì vọng, thậm chí là thua lỗ. Ví dụ, bạn có thể mở nhà hàng bán bánh pizza, với công nghệ làm bánh pizza hiện đại nhất, nhưng khách hàng vẫn thích pizza của đối thủ đang cạnh tranh với bạn hoặc đã đua theo xu hướng bảo vệ sức khỏe đang thịnh hành mà chuyển sang ăn salad. Nếu hoạt động kinh doanh thực sự tiếp tục tệ đi, bạn có thể phải thanh lý khoản đầu tư này, bán tháo thiết bị và đóng cửa.
Nếu nghĩ rằng hoạt động kinh doanh có rủi cao, thì người ta sẽ chỉ đầu tư nếu kì vọng vào phần thưởng cũng cao. Nhưng trong một quãng thời gian dài, ngay cả rủi ro bình thường cũng có thể phá hủy toàn bộ số vốn mà người ta nắm giữ. Đó là một trong những lý do vì sao của cải không nằm mãi trong tay một người nào đó. Xin mở những tờ tạp chí xuất bản cách đây năm mươi năm và đọc phần quảng cáo: rất ít công ty trong đó là những công ty quen thuộc với bạn. Hầu hết đã bị các đối thủ cạnh tranh với các dịch vụ mới hơn, tốt hơn hoặc rẻ hơn đẩy ra khỏi thương trường từ rất lâu rồi. Các doanh nghiệp gia đình cũng xuất hiện rồi biến mất, như câu ngạn ngữ “không ai giàu ba họ” đã nói: một người nào đó thành lập doanh nghiệp, con cái kế thừa và điều hành, rồi cháu chắt, sinh ra trong bạc tiền nhưng không có ý thức kinh doanh, chúng sẽ phá hủy công lao của cha ông mình.
Tiêu thụ. Hoang phí phá hủy vốn - người ta có thể “ăn” hết vốn cũng giống như gặp rủi ro mà mất vốn. Ví dụ, chủ sở hữu của doanh nghiệp gia đình có thể vay thế chấp hoặc bán bớt tài sản, nhưng không phải để đầu tư vào công cụ sản xuất mới mà chỉ đơn giản là để tăng lương cho chính mình. Hoặc những người sáng lập doanh nghiệp có thể thành lập quỹ ủy thác để hỗ trợ con cháu – rồi những người này (sống bằng những khoản được ủy thác) chỉ đơn giản là tiêu sạch những đồng vốn đó, chứ không đưa nó vào kinh doanh cho tương lai. Dù thế nào, thì gia đình cũng tiêu hết vốn của mình. Không lâu sau, họ lại quay trở lại với cảnh bần hàn.
Bạo lực. Tất nhiên, trộm cắp hoặc gian lận có thể làm cho người ta mất vốn, bạo lực có thể xóa sạch vốn. Những hành động như thế là vô đạo đức và làm cho nạn nhân bị thiệt hại, nhưng cũng làm cho tất cả mọi người đều phải trả giá. Phải dành nguồn lực để điều tra và trừng phạt tội phạm. Ngay cả khi tội ác không bị trừng phạt, thì người sử dụng đồng vốn cướp được bằng vũ lực có thể sẽ thu được ít giá trị hơn so với người đã cẩn thận tạo ra, chú tâm vào nó, quản lý và sử dụng để thực hiện những mục tiêu hiệu quả nhất – làm cho cho cả cộng đồng đều bị thiệt hại.
Hình thức cao nhất của bạo lực là chiến tranh: và như chúng ta đã thấy, một số người phê phán chủ nghĩa tư bản cho rằng chiến tranh tạo điều kiện cho kẻ mạnh cướp vốn của người yếu. Một số người lại cho rằng doanh nhân thích (và xúi giục) chiến tranh, đơn giản vì họ kiếm được lợi nhuận từ việc cung cấp tàu thuyền, máy bay, thiết bị điện tử, phương tiện và vũ khí mà chiến tranh cần. Nhưng trên thực tế, doanh nghiệp không thể khơi mào chiến tranh. Chỉ có các chính phủ mới có quyền ra tối hậu thư hay huy động lính nghĩa vụ. Còn các doanh nhân biết rằng chiến tranh không mang lại bất kì lợi ích gì mà còn gây ra những thiệt hại lớn: chiến tranh gia tăng rủi ro (tăng chi phí kinh doanh), làm giảm niềm tin và nhu cầu của khách hàng, đồng thời còn phá hủy vốn – trong đó có hàng hóa vật chất, hệ thống và vốn con người. Sự thật hiển nhiên này là lý do vì sao rất ít chế độ dân chủ hiện nay gây chiến với những chế độ dân chủ khác đang buôn bán với mình. Trong các thế kỷ trước, chiến tranh có thể được coi là biện pháp tốt nhằm cướp vốn của nước khác; ngày nay chúng ta nhận ra rằng tạo ra vốn dễ dàng hơn, an toàn hơn và hiệu quả hơn là cướp của người khác.
Thuế khóa. Vốn cũng có thể bị phá huỷ bởi những dạng hành động ít cực đoan hơn của nhà nước, chẳng hạn như thuế đánh vào tài sản hoặc thu nhập.
Ví dụ, nhân danh việc giúp đỡ người nghèo và buộc “người giàu” đóng góp nhiều hơn cho các dịch vụ công cộng, chính phủ đánh thuế 10% tất cả các loại vốn. Lúc này những người đang nghĩ đến việc thành lập hoặc mở rộng kinh doanh sẽ phát hiện ra rằng hàng hoá vốn mà họ cần để vận hành - nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện và tài chính - đã có giá cao hơn trước 10%. Nó làm cho họ ít có khả năng thực hiện dự án của mình hơn trước. Họ sẽ cần tính toán chắc chắn hơn trước, để đảm bảo rằng công việc kinh doanh của họ sẽ thành công trước khi đầu tư tiền bạc và công sức vào công việc kinh doanh này. Họ cũng sẽ ít có khả năng xây dựng, mở rộng hoặc thay thế hàng hoá vốn. Kết quả là, sẽ mất năng lực sản xuất, và cả cộng đồng đều sẽ bị thiệt hại đôi chút.
Của cải nói chung bị đánh thuế thì cũng thế. Người ta có thể để tiền nằm ở chỗ nào đó mà chẳng mang lại lợi ích gì hoặc mua những khóai lạc ngay trong ngày hôm nay. Nhưng nếu người ta muốn biến của cải của mình thành hàng hoá vốn có hiệu quả, thì họ cần sử dụng nó cho mục đích đó với thái độ chú tâm và có biện pháp quản lý. Chúng ta có thể khuyến khích bằng cách cho phép mọi người nhận toàn bộ phần thưởng mà nỗ lực này tạo ra. Nhưng khi của cải bị đánh thuế, phần thưởng tiềm năng sẽ giảm đi, còn rủi ro thua lỗ sẽ tăng lên. Kết quả là, của cải của người dân được sử dụng kém hiệu quả hơn và các quỹ tài chính họ bị chia nhỏ ra, bị phung phí và tiêu dùng chứ không được sử dụng nhằm gia tăng năng suất. Và tất cả mọi người đều bị thiệt hại.
Tái phân phối. Tái phân phối cũng là chính sách góp phần phá hủy vốn. Không thể đơn giản là lấy vốn của người này đem trao cho người khác mà không tạo ra bất kỳ tổn thất hoặc gián đoạn nào đối với năng suất của nó. Năng suất của vốn phụ thuộc vào nhiều thứ, chẳng hạn như nó tồn tại dưới hình thức nào, ở đâu, được quản lý như thế nào và – quan trọng là –kết hợp với các loại vốn khác như thế nào. Ví dụ, một mạng lưới phân phối sản phẩm phức tạp chắc chắn sẽ bị gián đoạn nếu một số xe tải trong mạng lưới bị người khác trưng dụng.
Có thể thấy hiện tượng này ở những nước đã tiến hành tịch thu các trang trại của các chủ sở hữu, sau đó đất đai và các trang thiết bị được tái phân phối cho những người khác. Các hệ thống tích hợp và cấu trúc vốn bị phá vỡ, kết quả thường là mất mùa và không có đủ lương thực. Tương tự như thế, những cuộc thí nghiệm của Trung Quốc với hợp tác hóa nông nghiệp là một thất bại thảm hại, nó chỉ được vãn hồi khi nước này áp dụng hệ thống canh tác “khoán hộ”, gần với sở hữu tư nhân hơn trước.
Luật chống độc quyền. Những bộ luật nhằm kiềm chế sức mạnh độc quyền của các công ty lớn cũng có thể có làm cho những mạng lưới vốn bị tổn hại. Trong nền kinh tế mở và có tính cạnh tranh, các công ty chỉ có thể phát triển bằng cách mang tới cho khách hàng những sản phẩm mà họ đánh giá cao – chứ không phải bằng cách ép buộc hoặc ô dù. Sự phát triển của những công ty này là chỉ dấu cho thấy họ thành công trong việc mang lại giá trị cho khách hàng. Giới hạn thị phần có nghĩa là các công ty sử dụng đồng vốn hiệu quả nhằm mang lại giá trị cao nhất cho công chúng không được phép làm như thế và thay vào đó, vốn được rút ra và chuyển cho những người sản xuất kém hiệu quả hơn.
Nhưng xã hội thiệt hại ngay cả trước khi các công ty đạt đến giới hạn đó. Rất khó xác định khi nào thì một công ty cụ thể trở thành công ty “thống trị” trên thương trường và quy mô to lớn của nó có phải là mối đe dọa lớn hơn là giá trị mà nó đang mang lại cho khách hàng hay không. Do đó, các công ty rất khó dự đoán quyết định chống độc quyền do các nhà lập pháp ban hành. Vì thế mà họ quyết định giữ quy mô nhỏ và sẽ đánh mất những lợi ích tiềm tàng mà năng lực của họ có thể tạo ra; hoặc những công ty này sẽ phát triển, nhưng rồi bị các cơ quan quản lý chia nhỏ ra, làm cho mạng lưới vốn bị gián đoạn và khách hàng chịu tổn thất.
Như chúng ta đã chứng kiến, ngay cả những công ty lớn nhất cũng có thể bị đe doạ bởi các công ty lớn khác, hoặc những công ty khác kết hợp với nhau, hay bị những công ty nhỏ hơn tần công “rỉa” những mảng kinh doanh khác nhau. Cho nên nhiều người ủng hộ chủ nghĩa tư bản khẳng định rằng chính sách nên tập trung vào việc làm cho thị trường cởi mở hơn chứ đừng áp đặt các giới hạn tùy tiện đối với quy mô của các nhà sản xuất nổi tiếng và thành công.
Vốn phụ thuộc vào sự đánh giá của con người
Một khía cạnh khác của bản chất dân chủ hoặc chủ nghĩa cá nhân của vốn, thường bị các nhà phê bình bỏ qua, đó là vốn không tự tồn tại, độc lập với con người. Một vật thể, để trở thành hàng hoá vốn thay vì là thứ vô giá trị, phải được tạo ra nhằm phục vụ cho nhu cầu, mong muốn và giá trị của con người. Một hòn đá chỉ là một hòn đá, nó không có giá trị gì cho đến khi con người nhận ra giá trị tiềm tàng của nó - chẳng hạn như dùng cho xây dựng ngôi nhà, hoặc máy xay bột. Chỉ khi đó nó mới trở thành vốn. Trước đây người ta từng nghĩ rằng Uranium là khoáng chất nói chung là vô dụng (và do đó chẳng có giá trị gì), đấy là trước khi chúng ta phát hiện ra biện pháp tạo ra năng lượng hạt nhân. Hiện nay mỏ Uranium là tài sản vốn rất có giá trị.
Nhưng nếu muốn biến một đồ vật vô dụng thành tài sản vốn có tiềm năng sản xuất, thì người ta phải có quyền sở hữu đối với nó. Người ta phải tự tin rằng mình có thể chiếm hữu nó, quản lý nó và hưởng lợi từ việc sử dụng nó. Cách đây vài năm, nhà kinh tế học người Peru, Hernando De Soto (1941−), đã chỉ ra rằng, trong khi nhiều người nghèo nhất ở Peru tự xây nhà và trồng cấy trên những mảnh ruộng, thì những mảnh đất hay những ngôi nhà này không thể được coi là vốn, vì người sử dụng không có giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp tài sản của mình. Ông đã vận động để thay đổi hiện tượng này: và bây giờ, chính những người nông dân đó đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp và có thể sử dụng nhà của mình làm tài sản thế chấp để vay trong quá trình mua đất và thiết bị. Các quyền tài sản của họ làm cho những mảnh đất từng chẳng có giá trị gì trở thành tài sản an toàn và có giá trị, thúc đẩy họ đầu tư để làm cho nó trở thành hiệu quả hơn.
Những ý tưởng như giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, tình trạng pháp lý của quyền sở hữu, luật lệ tạo điều kiện cho các công ty có thể hoạt động, các quy định và văn hóa của thị trường là những hiện tượng quen thuộc với người dân ở các nước phương Tây đã phát triển cao, người ta hầu như không chú ý tới. Ở những nước mà tự do bị đàn áp và quyền lực kinh tế tập trung trong tay nhà nước thì cũng không có các quyền tài sản, người ta không nhìn thấy và cũng không hiểu được những quyền này. Nhưng những quyền đó là tài sản văn hóa và pháp lý rất quan trọng nếu muốn sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả.
Nguồn gốc thực sự của vốn
Do đó, tạo ra các quyền tài sản và hệ thống pháp luật là biện pháp quan trọng để biến mọi thứ thành vốn, và việc duy trì các hệ thống này là cực kì quan trọng đối với chủ nghĩa tư bản. Ngoài ra, phải đầu tư thời gian và công sức thì mới có thể biến một thứ gì đó trở thành vốn.
Ví dụ, dùng tay không bạn có thể bắt được một vài con cá; nhưng bạn sẽ bắt được nhiều cá hơn nếu đẽo một chiếc gậy thành cái lao, hoặc kiếm dây cước và đan một cái lưới đánh cá, hay đóng một chiếc thuyền để có thể đánh cá ở những vùng nước có nhiều cá hơn.
Thời gian và công sức cần để tạo ra ngay cả những hàng hoá vốn đơn giản này xuất phát từ đâu? Câu trả lời là không được tiêu dùng chúng. Đáng lẽ ăn ngay tất cả số cá mà bạn bắt được, bạn phải ăn ít hơn (hoặc đánh bắt nhiều thời gian hơn) để có thể tích trữ số cá mà bạn sẽ ăn trong khi làm ra những công cụ có năng suất cao hơn. Có nghĩa là nhịn tiêu dùng - ăn ít cá hơn hoặc có ít thời gian rảnh rỗi hơn.
Nhịn tiêu dùng là biện pháp chính trong quá trình tạo ra vốn. Tất nhiên bạn có thể vay mượn cá của người khác để sống với tiêu chuẩn như cũ trong khi làm những phương tiện bắt cá; nhưng cuối cùng, bạn sẽ phải trả lại những khoản vay mượn cùng với lãi suất, cho nên ngay cả như thế, trong tương lai bạn cũng sẽ phải hy sinh một phần tiêu dùng. Và (ngoài việc thiết lập các quyền tài sản, hệ thống tư pháp, các thị trường và những thứ tương tự - tất cả đều cần đầu tư thời gian và công sức), nhịn tiêu dùng là biện pháp tạo vốn bền vững duy nhất.
Vốn đối lập với sự cưỡng chế
Bài học là phải tiết kiệm để đầu tư và thịnh vượng. Nhưng người ta chỉ tiết kiệm nếu họ được bảo vệ các quyền tài sản và chế độ pháp quyền, tức là những thứ làm cho họ tin tưởng rằng vốn mà mình tạo ra và hàng hóa mà mình sản xuất ra sẽ không bị người khác tước đoạt – trong đó có chính phủ - bằng vũ lực hay gian lận.
Trong chủ nghĩa tư bản, những biện pháp bảo vệ các quyền tài sản và chế độ pháp quyền thúc đẩy quá trình tạo ra vốn, và do đó, tạo ra năng suất cao hơn nhờ chuyên môn hóa, và trao đổi tự nguyện các sản phẩm mà sản xuất có hiệu quả cao hơn tạo ra lại cũng tạo ra giá trị. Quá trình tạo ra vốn, và đó chính là chủ nghĩa tư bản, tạo ra giá trị - mà không làm cho bất cứ người nào bị thiệt hại và cũng không hề bị cưỡng chế.
Chính sách của chính phủ cũng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và gia tăng vốn cũng như ngăn chặn không để cho người ta gian lận và cưỡng ép. Thuế đánh vào tiền tiết kiệm, tiền đầu tư và thu nhập làm cho mọi người đều giảm động cơ tiết kiệm, đầu tư hoặc tạo ra giá trị. Tái phân phối kiểu này là lấy đi vốn của các nhà đầu tư, những người đã tạo ra, chăm sóc và quan tâm tới nó để chuyển cho những người (ví dụ các quan chức chính phủ) ít quan tâm đến những việc làm như thế, hoặc hoàn toàn sử dụng cho tiêu dùng trong hiện tại. Hơn thế nữa, những chính sách như thế phá vỡ mạng lưới đầu tư tinh tế – cấu trúc vốn - nhờ có nó mà hàng hoá vốn mới phối hợp được với nhau nhằm mang lại năng suất cao nhất.
Nguồn: Eamonn Butler, "An introduction to capitalism", The Institute of Economic Affairs, 2024. Phạm Nguyên Trường dịch, Đinh Tuấn Minh hiệu đính.